khu vực hoặc của chính một nớc dành cho Chính phủ một nớc nào đó, nhng có
thể đợc thực hiện thông qua các tổ chức đa phơng nh UNDP ( Chơng trình phát
triển Liên Hợp Quốc) có thể các khoản viện trợ của các tổ chức tài chính
quốc tế đợc chuyển trực tiếp cho bên nhận viện trợ.
Phân loại theo mục tiêu sử dụng có: Hỗ trợ cán cân thanh toán; tín dụng
thơng nghiệp; viện trợ chơng trình; viện trợ dự án.
Hỗ trợ cán cân thanh toán là các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân
sách của Chính phủ, thờng đợc thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao tiền
tệ trực tiếp cho nớc nhận ODA và Hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hoá); Tín
dụng thơng nghiệp: tơng tự nh viện trợ hàng hoá nhng có kèm theo các điều
kiện ràng buộc. Chẳng hạn nớc cung cấp ODA yêu cầu nớc nhận phải dùng
phần lớn hoặc hầu hết vốn viện trợ để mua hàng ở nớc cung cấp; Viện trợ dự án:
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA. Điều kiện để đợc nhận
viện trợ dự án là" phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạng mục sẽ sử dụng
ODA"; Viện trợ chơng trình là nớc viện trợ và nớc nhận viện trợ ký hiệp định
cho một mục đích tổng quát mà không cần xác định chính xác khoản viện trợ sẽ
đợc sử dụng nh thế nào.
II. Vai trò của ODA đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Kể từ năm 1986 là thời điểm bắt đầu công cuộc đổi mới ở Việt Nam, cho
đến nay đất nớc đã thu đợc những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế và ổn
định xã hội. Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc. Để có những bớc phát triển lớn hơn thì vốn và công
nghệ là những yếu tố không thể thiếu. Mặc dù đã trải qua hơn một thập kỷ trong
sự nghiệp đổi mới nhng Việt Nam vẫn mới đợc coi bắt đầu bớc vào giai đoạn
đầu của tiến trình công nghiệp hoá. Do đó thu hút và sử dụng các nguồn vốn
bên ngoài không chỉ có FDI mà cả ODA, đặc biệt là ODA Nhật Bản có vai trò
rất quan trọng cho việc tạo đà phát triển của nền kinh tế nớc nhà.
ODA của Nhật Bản vẫn đợc coi là một nguồn vốn hết sức quý giá cho
tiến trình thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế ở Viêt Nam. Chính sách ODA
của Nhật Bản trong khoảng một thập kỷ qua về cơ bản là đáp ứng đợc sự mong
muốn của Chính phủ và nhân dân Việt Nam, và nó đã hỗ trợ tích cực cho sự
phát triển hợp tác lâu dài giữa Viêt Nam và Nhất Bản đặc biệt trong các quan
hệ ngoại giao và hợp tác kinh tế.
Nếu tính từ năm 1992 đến nay, Nhật Bản đã luôn là nớc đứng đầu về viện
trợ ODA dành cho Việt Nam với tổng số vốn cam kết lên tới 509,804 tỷ yên, t-
ơng đơng trên 5 tỷ USD. Điều đó trớc hết thể hiện đờng lối mong muốn tăng c-
ờng hợp tác trên lĩng vực kinh tế với Việt Nam. Vốn ODA của Nhật Bản dành
cho Việt Nam đã tăng năm sau lớn hơn năm trớc. Điều đó có một ý nghĩa hết
sức quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ giữa hai nớc, đặc biệt là quan hệ
ngoại giao và kinh tế. Đồng thời nó cũng có tác độg không nhỏ tới các quan hệ
đối ngoại khác của Việt Nam. Sau Nhật Bản thì một loạt các nớc phát triển
khác, các tổ chức quốc tế khác cũng đã nối lại và tăng cờng viện trợ cho Việt
Nam, hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trờng của Việt Nam.
Nhìn một cách bao quát nhất, nguồn vốn ODA của Nhật Bản trớc hết có
vai trò bổ sung nguồn vốn trong nớc. Việt Nam bớc vào quá trình thực hiện cải
cách với điều kiện cơ sở hạ tầng còn hết sức thấp kém. Việc cải tạo và phát
triển nó đòi hỏi trớc hết phải có một nguồn vốn rất lớn, đọi hỏi này mang tính
tất yếu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế ở một nớc chậm phát triển
nh Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên việc huy động và sử dụng nguồn vốn trong n-
ớc còn rất nhỏ bé do mức tiết kiện trong nớc còn thấp, tỷ lệ huy động vồn nhàn
rỗi cho đầu t cũng ở mức rất khiêm tốn sẽ không đảm bảo thoả mãn nhu cầu
khách quan ấy.
Với ý nghĩa trên, ODA của Nhật Bản đợc xem nh một trong các nguồn
vốn cơ bản từ bên ngoài có thể thu hút để thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế,
xã hội của Việt Nam. Ví dụ trong nhiều năm, đặc biệt năm 1998 nền kinh tề
Việt Nam gặp nhiều khó khăn do chịu ảnh hởng của cơn bão tài chính ở Châu
á, Chính phủ đã phải sử dụng tới cả ODA nh là một nguồn tài chính bổ sung
cho ngân sách: 3% để hỗ trợ ngân sách, 17% dành cho giáo dục và đào tạo,
35% cho xây dựng cơ bản, 45% cho vay lại các dự án.
Có thể nhận thấy rằng bớc vào thời kỳ đổi mới, đặc iệt trong thập kỷ 90
vừa qua, trợ giúp phát triển chính thức dới dạng viện trợ không hoàn lại và trợ
giúp kỹ thuật của Nhật Bản đã phần nào giúp Việt Nam tiềp thu những thành
tựu khoa học và công nghệ mới, góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá rút ngắn
thông qua chơng trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Đây đợc cho là lợi ích
căn bản, lâu dài mà ODA Nhật Bản dành cho Việt Nam trong thập kỷ qua.
Mặt khác, việc thu hút ODA Nhật Bản đã có một tác dụng nh lực hút cho
các nhà đầu t tới thị trờng Việt Nam. Việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng
ở Việt Nam không chỉ đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá ở Việt Nam mà
còn tạo ra môi trờng đầu t thuận lợi cho phía Nhật Bản. ODA đã tạo sự tin cậy
cho các nhà đầu t bỏ vốn vào Việt Nam. Đây đợc xem nh một hệ quả tất yếu
của mối quan hệ tơng tác giữa ODA và FDI của Nhật Bản tại Việt Nam.
Thực hiện theo các cam kết cấp cao giữa chính phủ hai nớc, nguồn vốn
ODA này đã giữ vai trò quan trọng trong việc triển khai công cuộc cải cách
doanh nghiệp quốc doanh, tự do hoá thơng mại, cải tạo hệ thống tài chính tiền
tệ quốc gia đặc biệt là ngân hàng ở Việt Nam. Kết quả của những cải cách đó sẽ
giúp Việt Nam có thể hội nhập đợc với tiến trình phát triển chung của khu vực
và thế giới.
Tóm lại, viện trợ phát triển của nhật Bản cho Việt Nam trong giai đoạn
vừa qua về cơ bản là phù hợp với những u tiên phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam, đặc biệt là đã hỗ trợ cho Việt Nam cải thiện và phát triển cơ sở hạ
tầng, từng bớc nâng cao năng lực sản xuất và quản lý, góp phần chuyển giao
công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, từ đó Việt Nam từng bớc nâng cao vai
trò của nền kinh tế và vị thế của đất nớc.
chơng II
tình hình viện trợ ODA của Nhật bản cho việt nam
từ 1992 đến nay
I. Tình hình tiếp nhận và giải ngân ODA ở Việt Nam
Về tiềp nhận: trong chiến tranh chống Mỹ Việt Nam đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với các nớc XHCN và nhận đợc nhiều khoản viện trợ. Sau chiến
tranh chúng ta vẫn tiếp tục nhận tài trợ ODA không những từ các nớc XHCN
mà cả từ các nớc TBCN, đặc biệt từ thập kỷ 90 đến nay viện trơ ODA dành cho
Việt Nam ngày càng tăng, có vai trợ quan trọng trong sự phát triển kinh tế của
Việt Nam. Các nhà tài trợ song phơng và đa phơng chính đó lạ:
Đa phơng: Ngân hàng Thế giới (WB); Ngân hàng phát triển Châu á
(ADB); Các tổ chức phi chính phủ (NGO) và Liên hợp quốc
Song phơng: Nhầt Bản, Hàn Quốc, úc, Thụy Điển, Đài Loan, Pháp, Bỉ và
Canađa Trong đó Nhật Bản luôn là nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam, với
những hình thức cung cấp đa dạng và u đãi. Bên cạnh đó WB, ADB cũng là hai
nguồn viện trợ lớn.
Bảng1: Tổng vốn ODA cam kết vào Việt Nam (Tỷ USD)
Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 tổng
Cam kết 1,88 1,94 2,26 2,43 2,40 2,40 2,70 2,8 18,81
Giải ngân 0,27 0,62 o,66 0,98 1,015 1,04 1,2 0,785 5,798
(Theo: Hỗ trợ phát triển chính thức ODA - NXB giáo dục - 2000)
Về giải ngân ODA nói chung và ODA nhật Bản nói riêng trong thời gian
qua và hiện nay của chúng ta, qua các t liệu tổng hợp cho thấy chiều hớng viện
trợ chính thức cho Việt Nam tiềp tục tiến triển thuận lợi ở một số mặt quan
trọng, song còn nhiều vấn đề thách thức.
Nếu tính từ tháng 11 năm 1992 tới năm 1997, trong gần 6 năm đầu Việt
Nam đợc nối lại viện trợ đa phơng (trong đó nguồn ODA của Nhật Bản đóng
vài trò quan trọng nhất với tỷ trọng luôn chiếm trên 50%) với các mức cam kết
rất cao, trung bình trên 2 tỷ USD/năm. Mức giải ngân cho tổng gói ODA nói
chung đã tăng đáng kể khoảng 1 tỷ USD/năm trong các năm 1996, 1997 và
1998. Mặc dù chiều hớng giải ngân ODA tăng lên chủ yếu do những tiến bộ
trong việc thực hiện các dự án và nó đợc triển khai trên một diện tơng đối rộng,
ở hầu hết các loại hình dự án ODA, kể cả các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và
hỗ trợ kỹ thuật. Tuy nhiên, so với thực tế thì việc giải ngân còn nhiều vấn đề
phải tính toán.
Xét riêng việc giải ngân vốn tín dụng u đãi ODA của Nhật Bản cho Việt
Nam trong thời gian qua mới đạt mức trung bình tăng khoảng 4% năm. Mặc dù
đây đợc thừa nhận là có sự cố gắng rất lớn của Việt Nam, năm 1992 mức giải
ngân mới chỉ đạt khoảng 3%; năm 1996 đạt 6%; năm 1998 đạt 14,9%.
Trong thời gian qua đã có một số chơng trình dự án ODA đã thực hiện
xong và hiện đang phát huy tác dụng tích cực trong sự nghiệp phát triển kinh tế
- xã hội của Việt Nam nh nhà máy nhiệt điện sử dụng khí thiên nhiên Phú Mỹ 2
-giai đoạn 1; một số đoạn đờng, cầu trên các đờng quốc lộ số 1, số 5; nhiều
bệnh viện ở các thành phố và thị xã nh bệnh viện Chợ Rẫy (Thành phố Hồ Chí
Minh), Việt Đức (Hà Nội) và nhiều trờng học cũng đợc xây dựng ở nhiều nơi.
Bên cạng những kết quả đạt đợc trong công tác huy động, tiềp nhận quản
lý và sử dụng vốn ODA trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ không ít tồn tại ảnh
hởng tới hiêụ quả sử dụng vốn. Tốc độ giải ngân đối với các dự án sử dụng
ODA các năm qua có tằng lên nhng vẫn còn quá chậm do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, khâu khảo sát thiết kế, chuẩn bị dự án chất lợg không cao nên
giai đoạn thực hiện dự án phải khảo sát, thiết kế lại, hoặc phải bổ sung thiết kế
mất nhiều giời gian và chính sách giải quyết thủ tục về đất đai không đợc đồng
bộ với chíng sách tín dụng.
Thứ hai, yêu cầu của các nhà tài trợ về việc chấp hành nguyên tắc đấu
thầu khắt khe và phức tạp, nên việc triển khai đấu thầu chập, quy trình đấu thầu,
xét thầu, giao thầu kéo dài hơn so với kế họach do có sự khác biệt giữa thủ tục
trong nớc và nớc ngoài.
Thứ ba, năng lực của các cơ quan thực hiện dự án còn hạn chế, trình độ
năng lực quản lý nợ của các cán bộ còn yếu kém, chính sách của nhà nớc cha
đầy đủ, đồng bộ, thủ tục hành chính còn rờm rà. Chính vì vậy việc giải ngân
ODA thấp và gây ra một số bất lợi cho Việt Nam, đó là các công trình thực hiện
không đúng tiến độ ảnh hởng tới tốc độ tăng trởng kinh tế giảm hiệu quả sử
dụng vốn, ảnh hởng tới thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội đã họach định.
Từ thực tế trên, để tăng cờng quản lý, tăng tốc độ giải ngân, sử dụng nguồn vốn
ODA hiệu quả, chúng ta cần có những biện phát hữu hiệu hơn để phát huy đợc
hiệu quả của nguồn vốn này trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc.
II. Viện trợ ODA Nhật Bản cho Việt Nam - những kết quả đạt đợc
và những khó khăn tồn tại.
Nhật Bản là nớc có quan hệ viện trợ cho Việt Nam từ rất sớm và chính
thức đợc phát triển từ năm 1975, nhng đến năm 1979 Nhật Bản đình chỉ vốn
ODA cho Việt Nam. Tháng 11 năm 1992 Nhật chính thức công bố nối lại viện
trợ ODA cho Việt Nam và bắt đầu cho Việt Nam vay 45,5 tỷ yên với lãi suất u
đãi 1%/ năm trong vòng 30 năm, trong đó 10 năm đầu không phải trả lãi.
Quyết định của Nhật Bản khôi phục viện trợ ODA cho Việt Nam có một
ý nghĩa quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Nhật Bản, mở ra một thời kỳ mới
trong quan hệ hợp tác trên rất nhiều lĩng vực giữa hai quốc gia.
Về phía Nhật Bản, quyết định này phản ánh ý chí mạnh mẽ của Nhật
nhằm đóng vai trò lớn hơn và độc lập hơn trong việc tạo lập một hệ thống mới
những mối quan hệ quốc tế trong khu vực và trên thế giới, một vai trò tơng ứng
với tầm vóc kinh tế của Nhật Bản trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Quyết định
này cũng đợc xem nh một dấu hiệu về việc công khai sự ủng hộ của Nhật đối
với chính sách đổi mới toàn diện của Việt nam, giúp Việt Nam nhanh chónh
hoà nhập với cộng đồng quốc tế mà trớc hết là với tổ chức ASEAN, thúc đẩy
quá trình bình thờng hoá quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam; thiết lập các mối quan
hệ về thơng mại và đầu t lâu dài với giới kinh doanh Nhật Bản.
Về phía Việt Nam, trong thực tế việc Nhật Bản quyết định viện trợ ODA
trở lại cho Việt Nam vào thời điểm khi Mỹ vẫn cha xoá bỏ lệnh cấm vận của họ
với Việt Nam và tiếp tục gây áp lực ngăn cản Nhật Bản mở rộng viện trợ cho
Việt Nam, do vậy nối lại viện trợ là một nguồn động viên hết sức to lớn cho
Việt Nam. Nhật Bản viện trợ ODA trở lại không những chỉ giúp kích thích sự
phát triển trên các mặt kinh tế, xã hội của Việt Nam, thu hút nhiều nguồn viện
trợ và đầu t nớc ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố và
phát triển mở rộng quan hệ thơng mại cũng nh hợp tác kinh tế giữa hai nớc, mà
còn đóng góp vào việc khái thác các nguồn viện trợ đa phơng, tạo ra những cơ
hội cho liên doanh với nớc ngoài ở Việt Nam và tạo ra động lực để cải thiện và
mở rộng các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam.
Cùng với việc cấp trở lại ODA song phơng cho Việt Nam, Nhật Bản đã
đóng vai trò tích cực trong việc giúp Việt Nam khai thác các nguồn viện trợ
khác từ các tổ chức tài chính và tiền tệ quốc tế nh Ngân háng Thế giới (WB),
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các tổ chức quốc tế khác. Nhật Bản là nớc cung
cấp viện trợ lớn nhất trong số 23 nớc và 17 tổ chc quốc tế tham dự Hội ghị các
nhà tài trợ cho Việt Nam đợc tổ chức lần đầu tiên trong lịch sử tại Paris vào
tháng 11 năm 1993 nhằm mục đích thảo luận phơng hớng trợ giúp đối với quá
trình khôi phục kinh tế ở Việt Nam.
Năm 1992 là năm đánh dấu bớc ngoặt trong quan hệ Việt Nam - Nhật
Bản, đặc biệt thể hiện ở quan hệ viện trợ phát triển. Việt Nam trở thành 1 trong
10 nớc đứng đầu danh sách nhận viện trợ ODA song phơng của Nhật Bản với số
vốn là 281,24 triệu USD, đứng thứ 6 sau các nớc nh Inđônêxia là 1356,71 triệu
USD, Trung Quốc: 1050,76 triệu USD, Philippin: 1030,67 triệu USD, ấn Độ:
425,29 triệu USD và Thái Lan: 413,97 triệu USD. Nhật Bản cũng đã trở thành
nớc cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam, tiếp theo là Thụy Điển: 59,01 triệu
USD, Italia: 26,35 triệu USD và Pháp: 19,62 triệu USD.
Đến năm 1993, Việt Nam xếp thứ 9 trong số các nớc nhận viện trợ không
hoàn lại của Nhật Bản với số tiền là 6720 triệu yên, sau Bănglađét với 19287
triệu yên rồi đến Philippin, Trung Quốc, Cămpuchia, Hylạp, Inđonêxia, Nêpan
và Pakistan.Trong năm 1993 nhật Bản đã cam kết các khoản cho vay hàng hoá
và cho vay dự án giúp Việt Nam xây dựng lại cơ sở hạ tầng về kinh tế và ký văn
bản nghi nhớ vào tháng 1 năm 1994.
tháng 11 năm 1993 một nhóm chuyên gia Nhật Bản đợc cử sang Việt
Nam giúp soạn thảo Bộ luật Dân sự và cải cách hệ thống quản lý điều hành
chính ở các chính quyền địa phơng. Tháng 8 năm 1994, Thủ tớng Nhật Bản
Tomiichi Myazawa sang thăm hữu nghị chính thức Việt Nam đã ký các văn
kiện về việc viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 7733 triệu yên.
Năm 1994 Việt Nam đứng số 12 trong số các nớc nhận viện trợ không
hoàn lại của Nhật Bản với số tiền là 58,76 triệu USD. Ngoài ra, Nhật còn viện
trợ hợp tác kỹ thuật cho Việt Nam trị gia 24,46 trriệu USD. Việt Nam đứng thứ
16 trong số các nớc nhận viện trợ song phơng của Nhật Bản. Đến đầu năm
1995, Nhật Bản đã cho Việt Nam vay 165 tỷ yên, bao gồm cả 97,8 tỷ yên từ khi
khôi phục viện trợ vào năm 1992.
Đi đôi với việc nối lại viện trợ ODA song phơng cho Việt Nam, Nhật Bản
còn đóng vai trò tích cực giúp Việt Nam khai thác nguồn viện trợ từ các tổ chức
quốc tế. Ngân hàng xuất khẩu Nhật Bản cùng với 8 ngân hàng khác và Ngân
hàng Thơng mại của Pháp đã cho Việt Nam vay 85 triệu USD để thanh toán các
khoản nợ tín dụng của Quỹ Tiền tệ quốc tế, do vậy Việt Nam đã đợc Quỹ Tiền
tệ quốc tế cho vay 223 triệu USD vào năm 1993.
Năm 1995 khi Việt Nam đã thực sự hội nhập vào các quan hệ hợp tác
khu vực, những cải cách thị trờng đã trở nên hớp dẫn hơn đối với các nhà đầu t
Nhật, ví dụ độ rủi ro cho các khoản đầu t trực tiếp ít đi và Nhật Bản đã thúc đẩy
mạnh mẽ ODA cho Việt Nam. Ngày 21 - 4 - 1995, trong chuyến thăm Nhật Bản
của Tổng Bí th Đỗ Mời, Nhật Bản và Việt Nam đã ký một hiệp định tín dụng trị
giá 58 tỷ yên cho 8 dự án của Việt Nam, bao gồm: các dự án về xây dựng nhà
máy nhiện điện và thuỷ điện. Viện trợ không hoà lại để cải tạo hệ thống cấp nớc
khu vực Gia Lâm là 6,5 triệu yên, trang bị lại Khoa Nông nghiệp Trờng Đại học
Cần Thơ là 788 triệu yên, trang bị máy móc y tế cho thành phố Hà Nội 590
triệu yên. Đây là khoản tín dụng u đãi với lãi suất 1,8%/ năm, thời gian vay 30
năm, trong đó 10 năm đầu không phải trả lãi. Hai nớc cũng đã ký đợc một hiệp
định viện trợ văn hoá với trị giá 42 triệu yên để trang bị cho phòng học tiếng
Nhật của Trờng Đại học Ngoại thơng. Đồng thời Nhật Bản cũng cam kết viện
trợ không hoàn lại 3 tỷ yên để hỗ trợ công cuộc cải cách ở Việt Nam.
Tháng 6 năm 1995, trong chuyến thăm Việt Nam của Thứ trởng Ngoại
giao Nhật Bản, phía Nhật Bản đã cam kết viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam
1947 triệu yên ( khoảng 23 triệu USD) để thực hiện giai đoạn hai, xây dựng
cảng cá Vũng Tàu; 238 triệu yên (khoảng 2,6 triệu USD) để thực hiện chơng
trình tiêm chủng mở rộng; và 85000 USD hỗ trợ cho Việt Nam tham gia một số
họat động của ASEAN. Tính chung trong năm 1995, Nhật Bản đã thoả thuận
cho Việt Nam vay 70 tỷ yên.
Trong chuyến thăm hữu nghị chính thức của Bộ trởng Ngoại giao Nhật
Bản vào ngày 27 - 7 - 1996, phía Nhật Bản đã cam kết viện trợ không hoàn lại
cho Việt Nam 3,557 tỷ yên (khoảng 35 triệu USD) cho dự án xây dựng cầu
nông thôn và miền núi phía bắc, và 45,1 triệu yên (khoảng 450.000 USD) viện
trợ văn hoá nhằm cung cấp thiết bị nghe nhìn cho Khoa tiếng Nhật Trờng Đại
học Ngoại ngữ Hà Nội.
Nhìn chung viện trợ phát triển chính thức của Nhật Bản cho Việt Nam đã
tăng khá nhanh. Trong thời gian 8 năm, từ 1992 đến 1999 Nhật Bản đã cam kết
cho Việt Nam vay 6.335 triệu USD, đặc biệt năm 1998 và 1999, mặc dù vẫn
còn rất khó khăn về kinh tế do ảnh hởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, nhng
Nhật Bản vẫn cam kết cho Việt Nam vay 835 triệu USD (năm 1998) và 1,1 tỷ
USD (năm 1999, chiếm hơn một nửa trong tổng số 2,1 tỷ USD mà các nhà tài
trợ quốc tế đã cam kết cho Việt Nam vay).
Bảng 2: Quy mô ODA của Nhật Bản cug cấp cho Việt Nam
(đơn vị tính:100 triệu yên)
Năm/ Loại hình 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Viện trợ không hoàn lại 19,19 75,86 80,47 121,48 125,47 125 143
Tín dụng u đãi 455 523,0
4
580 700 810 850 880
Lãi suất 1% 1% 1,8% 2,3% 2,3% 2,3% 2,3%
(Theo: Hỗ trợ phát triển chính thức ODA NXB giáo dục - 2000)
Bớc sang thế kỷ XXI, trong năn 2001 Chính phủ Nhật Bản đã chính thức
ký Hiệp định tài trợ cho các dự án quan trọng nh đờng dây tải điện 500KV Phú
Mỹ - Nhà Bè - Phú Lâm (114,15 triệu USD), cầu Cần Thơ (216,04 triệu USD),
viện trợ không hoàn lại 13,63 triệu USD cũng trong năm 2001 do nền kinh tế
bị suy thoái và ý kiến trong nớc phản đối việc gia tăng lợng ODA ngày một cao,
đồng thời nhằm hạn chế bớt khoản nợ chính phủ vốn đã rất cao (130% GDP),
Chính phủ Nhật Bản buộc phải cắt giảm ngân quỹ dành cho ODA. Tuy vậy mức
ODA cam kết cho Việt Nam trên cơ sở đồng yên vẫn tăng 8% với mục đích
nhằm hỗ trợ Việt Nam xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội nh: Sân bay Tân Sơn Nhất, cầu Bãy Cháy, cầu Thanh Trì,
nhà máy nhiệt điện Ômôn v v Tổng số ODA trong năm 2001 gần 700 triệu
USD.
Trong bài phát biểu của Thủ Tớng Nhật hồi giữa năm 2001, Nhật Bản đã
cam kết thúc đẩy viện trợ cho Việt Nam. Ngày 28 - 11 - 2001, nhân lễ kỷ niệm
lần thứ 10 Nhật nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam, hai bên đã thoả thuận 5
lĩnh vực cơ bản mà nguồn vốn ODA sẽ tẩp trung vào: 1- Đào tạo con ngời và
xậy dựng cơ chế thúc đẩy việc dịch chuyển sang nền kinh tế thị trờng; 2 - Nâng
cầp cơ sở hạ tầng kinh tế nh điện lực, vận tải; 3 - Phát triển nông nghiệp nông
thôn; 4 - Giáo dục và chữa bệnh; 5 - Môi trờng.
Nhìn chung hình thức chủ yếu trong viện trợ ODA của Nhật Bản cho
Việt Nam là dạng tín dụng u đãi, chiếm 90%. Tỷ lệ viện trợ không hoàn lại
trong ODA của Nhật Bản cho Việt Nam còn tơng đối thấp, khoảng 10%. Hiện
tại các khoản vay lớn nhất là khoản vay hàng hoá (53%), điện và khí đốt (28%),
giao thông vận tải và thông tin liên lạc (khoảng19%). Các hàng hoá này đợc sử
dụng cho mục đích ngắn hạn, nhng việc trả nợ lại là dài hạn, do đó chúng cần đ-
ợc sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
Các khoản ODA của Nhật Bản cũng nh các tổ chức quốc tế khác đều chủ
yếu hớng vào các dự án cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới hạ tầng cơ sở của
Việt Nam nh nâng cấp đờng quốc lộ xuyên Việt, xửa chữa đờng xe lửa Hà Nội -
thành phố Hồ Chí Minh, nân cấp cảng Hải Phòng, cải tạo và hoàn chỉnh các hệ
thống cấp thoát nớc của một số tỉnh và thành phố.
Bên cạnh những thành tựu đã nêu trên, Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều
khó khăn bởi vì quá trình tiếp nhận và sử dụng ODA ở Việt Nam còn đang rất
mới mẻ, chúng ta vừa học tập vừa thực hành trong điều kiện có nhiều khác biệt
về quy định giữa trong nớc và nớc ngoài, có nhiều khác biệt trong thủ tục cung
cấp ODA giữa các nhà tài trợ chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót
trong khâu tiếp nhận và sử dụng cụ thể là:
Cơ chế quản lý và sử dụng các nguồn viện trợ còn nhiều điểm chồng
chéo, rờm rà nên đôi lúc dẫn đến tình trạng chậm trễ trong việc thành lập các
Ban quản lý dự án. Ví dụ nh một dự án thuộc lĩnh vực lâm nghiệp khi đã có hiệu
lực 3 tháng mà vẫn không mở đợc taì khoản do thiếu nhân lực, sau 5 tháng dự
án này mới rút đợc một khoản tiền tạm ứng để họat động.
Theo các chuyên gia nớc ngoài, sự thống nhất giữa các cơ quan liên quan
với cấp Bộ và Ban quản lý dự án cha đợc chú trọng; từng hiệp định cụ thể thì do
rất nhiều Bộ, ngành ký nhng bộ tài chính lại không theo dõi chung đợc các
nguồn vốn vay hoặc viện trợ cũng nh nội dung sử dụng từng nguồn.
Thực tế cho hấy các thủ tục xem xét và trình tự duyệt dự án còn phức tạp,
phải qua nhiều cấp; nhất là khâu đấu thầu và chấm thầu khiến cho thời gian
thực hiện dự án bị chậm lại. Nh dự án " Cảng Sài Gòn" có hai gói thầu 7 và 8 để
mua cần cẩu đợc trình duyệt từ tháng 7 năm 1997, mà đến tháng 8 năm 1998
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét