Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014

Kinh tế Vĩ mô

hình kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây cũng đang có những dấu hiệu bất ổn,
ngoài những nguyên nhân khách quan, chủ quan; trong nước, ngoài nước thì trong đó,
chính sách tiền tệ cũng đóng một vai trò không kém phần quan trọng.
II. Kết quả và hiệu quả chính sách tiền tệ
1. Đối với năm 2005:
Năm 2005, tốc độ huy động vốn bằng VNĐ của các NHTM tăng nhanh hơn tốc độ
huy động vốn bằng ngoại tệ. Nguồn huy động tiền gửi tiết kiệm của dân tăng mạnh so
với năm 2004. Do đó, tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông đã giảm từ 23,1% vào tháng
12/2004 xuống còn 20,7% vào tháng 12/2005. Tuy nhiên, việc tiền gửi của doanh
nghiệp giảm mạnh trong 6 tháng đầu năm, tăng nhẹ trở lại trong 5 tháng sau đó và tăng
mạnh vào tháng12 đã ít nhiều làm cho vốn khả dụng của các NHTM thiếu hụt trong một
số thời điểm, nhất là những tháng đầu năm. Nguyên nhân của tình hình này là do các
NHTM đã đa dạng hóa các hình thức huy động vốn; lãi suất danh nghĩa của VNĐ vẫn
hấp dẫn hơn lãi suất ngoại tệ. Mặc dù chêch lệch giữa lãi suất tiền gửi VNĐ với lãi suất
tiền gửi USD đã giảm từ 4,8%/năm năm 2004 xuống 4,2%/năm năm 2005, song VNĐ
chỉ mất giá dưới 1% so với USD, nên lợi tức thu được từ tiền gửi VNĐ vẫn cao hơn từ
tiền gửi USD). Sự “trầm lắng” của thị trường BĐS cũng được xem là một nhân tố
khuyến khích tiền nhàn rỗi gửi vào NHTM.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2005 ước tính giảm 5-7 điểm phần trăm so với
năm 2004, trong đó tốc độ cho vay bằng ngoại tệ chậm hơn và tốc độ cho vay bằng
VNĐ nhanh hơn năm 2004. Việc giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng chủ yếu diễn ra ở các
NHTM nhà nước, trong khi các NHTM cổ phần lại đẩy nhanh hơn tốc độ tăng trưởng
tín dụng so với năm 2004. Tăng trưởng tín dụng của khu vực NHTM nhà nước giảm
chủ yếu là do khu vực này tiếp tục cơ cấu lại nợ và nỗ lực nâng cao chất lượng tín dụng
(trong các năm trước tốc độ tăng trưởng tín dụng là quá cao). Để kiểm soát lạm phát và
hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ngày 20/4/2005 NHNN đã ban hành Chỉ thị số 02/2005/CT-
NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng và các đơn vị trực thuộc NHNN thực hiện đồng bộ
các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng phù hợp với khả năng huy động vốn. NHNN
chỉ tài trợ ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thiều hụt tạm thời vốn khả dụng của các NHTM
qua các nghiệp vụ của NHNN, chủ yếu là thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
Trên cơ sở theo dõi sát diễn biến kinh tế và tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước đã điều
hành khá linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, điều tiết kịp thời cung- cầu vốn trên
thị trường tiền tệ và nhu cầu thiếu hụt vốn khả dụng của các NHTM.
Trong năm 2005, nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục là kênh chủ yếu điều tiết vốn khả
dụng của các tổ chức tín dụng. Doanh số giao dịch của nghiệp vụ thị trưởng mở đạt
102.511 tỷ VNĐ, tăng 65,5% so với năm 2004. Trong những tháng đầu năm 2005, đặc
biệt là dịp Tết nguyên đán, NHNN đã kịp thời cung ứng vốn ngắn hạn cho các NHTM
để đáp ứng kịp thời nhu cầu rút tiền của khách hàng. Trong thời gian này, nghiệp vụ thị
trường mở được thực hiện hàng ngày, với doanh số tăng hơn 200% so với mức tăng
126% của cùng kỳ năm 2004.
Ngân hàng Nhà nước cũng thực hiện điều chỉnh tăng các mức lãi suất chỉ đạo 3 lần
trong năm 2005. Cụ thể là ngay trong tháng 1/2005 NHNN đã tăng lãi suất cơ bản từ
4
7,5%/năm lên 7,8%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 5%/năm lên 5,5%/năm, và lãi suất tái
chiết khấu từ 3%/năm lên 3,5%/năm. Việc điều chỉnh tăng các mức lãi suất chỉ đạo ngay
từ đầu năm là nhằm thắt chăt hơn tiền tệ, qua đó kiểm soát lạm phát đang có xu hướng
gia tăng. Tiếp đến, vào tháng 3/2005, NHNN điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và tái
chiết khấu tương ứng lên 6%/năm và 4%/năm. Cuối cùng, vào tháng 12/2005, NHNN
lại tăng lãi suất cơ bản từ 7,8%/năm lên 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 6%/năm lên
6,5%/năm và lãi suất tái chiết khấu từ 4%/năm lên 4,5%/năm.
Diễn biến tỷ giá, lãi suất và hoạt động thị trường ngoại tệ liên ngân hàng năm 2005
có những đặc điểm sau:
Về tỷ giá: Như đề cập ở trên, tỷ giá tương đối ổn định, mà một nguyên nhân chủ
yếu là do NHNN vẫn chủ trương dùng “neo” tỷ giá để kiểm soát lạm phát. Diễn biến tỷ
giá xem ra vẫn phù hợp với quan hệ cung cầu. Tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá trên
thị trường liên ngân hàng chênh lệch không đáng kể. NHNN mua được một lượng ngoại
tệ nhiều hơn mức bán ra, qua đó tăng được dự trữ ngoại tệ.
Ngoài mục tiêu kiểm soát lạm phát, NHNN còn tính đến tác động tiêu cực có thể
của việc tăng tỷ giá danh nghĩa VNĐ/USD (VNĐ mất giá so với USD) đối với sự ổn
định thị trường tiền tệ và sản xuất (do đến hơn 97% giá trị hàng hóa nhập khẩu là
nguyên nhiên vật liệu và máy móc, thiết bị).
Về lãi suất: Lãi suất huy động kỳ hạn 3 tháng và 12 tháng phổ biến ở mức
0,63%/tháng (7,56%/năm) và 0,7%/tháng (8,4%/năm), tăng khoảng 0,07-0,1%/tháng
(0,84%/năm-1,2%/năm). Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 0,8-1,03%/tháng
(9,6%-12,39%/năm) tăng khoảng 0,08-0,1%/tháng (0,96%-1,2%/năm). Lãi suất cho vay
trung dài hạn phổ biến ở mức 0,9%-1,35%/tháng tăng khoảng 0,1%-0,25%/tháng (1,2%-
3%/năm).
Lãi suất huy động và cho vay bằng VNĐ trong 10 tháng đầu năm 2005 tăng khoảng
15,8% so với tháng 12/2004. Nguyên ngân của sự biến động này là do: (1) lạm phát còn
cao; (2) tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các quý đều tăng; (3) lãi suất trên thị trường quốc
tế có xu hướng tăng; (4) NHNN điều chỉnh tăng lãi suất; và (5) các NHTM cạnh tranh
giữ thị phần. Tuy chưa có nghiên cứu cụ thể, nhưng thực tế cho thấy sự cạnh tranh để
giữ thị phần giữa các NHTM có tác động không nhỏ đến sự biến động lãi suất trong
năm 2005.
Lãi suất huy động ngoại tệ (USD) tăng mạnh từ mức 2,75%/năm lên 4,2%/năm đối
với kỳ hạn 12 tháng. Các kỳ hạn khác cũng biến động tương ứng. Lãi suất cho vay tăng
khoảng 2-2,5 điểm phần trăm/năm (lãi suất cho vay ngắn hạn hiện nay phổ biến ở mức
5- 6,2%/năm, lãi suất cho vay trung dài hạn phổ biến ở mức 5,5-7,2%/năm). Lãi suất
ngoại tệ tăng chủ yếu do FED điều chỉnh tăng lãi suất và các NHTM cạnh tranh giữ thị
phần.
Về hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng: Tổng giá trị giao dịch giữa các
ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng năm 2005 tăng khoảng 27% so với năm 2004,
trong đó: các giao dịch giao ngay chiếm tỷ trọng khoảng 89,1% tổng giá trị giao dịch và
tăng khoảng 50% so với năm 2004; giao dịch hoán đổi chiếm tỷ trọng 4,18%, tăng hơn
1000% so với năm 2004; và giao dịch kỳ hạn chiếm tỷ trong 6,72%, giảm khoảng trên
5
30% so với năm 2004. Nhìn chung, hoạt động thị trường trở nên sôi động hơn, nhất là
đối với nghiệp vụ hoán đổi.
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện tốt vai trò người mua, bán cuối cùng trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng, góp phần quan trọng giữ ổn định tỷ giá. Năm 2005,
NHNN bán ngoại tệ cho các NHTM chủ yếu là để phục vụ nhu cầu nhập khẩu xăng dầu,
phân bón. Do giá xăng dầu tăng nên lượng ngoại tệ NHNN mua từ các NHTM ít hơn
lượng bán ra cho các NHTM, nhưng NHNN lại mua được nhiều ngoại tệ từ Bộ Tài
chính và các tổ chức tín dụng. Tính chung từ các nguồn, mức mua (ròng) của NHNN
tăng gần 3 lần so với năm 2004, góp phần tăng dự trữ ngoại tệ.
Nhìn chung, chính sách tiền tệ năm 2005 đã có những đóng góp tích cực nhất định
cho việc hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, cũng còn một
số vấn đề chính sách cần được lưu ý.
Trước hết, thị trường tín dụng của các khu vực NHTM nhà nước và cổ phần năm
2005 cho thấy lãi suất cho vay tăng, song ít có tác động hạn chế cầu tín dụng trong bối
cảnh tăng trưởng kinh tế nhanh và lãi suất thực thấp, mà chỉ chủ yếu làm dịch chuyển
phần nào cầu tín dụng bằng ngoại tệ sang cầu tín dụng bằng VNĐ (lưu ý là tốc độ tăng
tín dụng bằng ngoại tệ năm 2004 cao hơn nhiều so với năm 2003 và cũng cao hơn tốc
độ tăng tín dụng bằng VNĐ). Điều này phần nào phản ánh hiệu lực chính sách lãi suất
của NHNN còn hạn chế, do thị trường tiền tệ chưa hoàn thiện và thị trường vốn còn
không ít méo mó.
Thêm vào đó, việc điều tiết cung - cầu về vốn và lãi suất của NHNN bị hạn chế do
nhiều luồng vốn còn nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN, đặc biệt là luồng chu chuyển
vốn của khu vực chính phủ. Một ví dụ là năm 2005 tiền gửi ngân sách tại NHNN tăng
nhiều, qua đó đã rút một lượng tiền không nhỏ khỏi lưu thông, gây áp lực tăng lãi suất
trên thị trường tiền tệ (đến tháng 9/2005 NHNN bơm tiền qua các kênh tăng khoảng 9%,
nhưng thực tế tiền cơ bản chỉ tăng 2,4%). Mặt khác, một lượng tiền gửi của Kho bạc
nhà nước được gửi tại các NHTM đang phát huy khả năng tạo tiền mà NHNN khó có
thể tính toán chính xác để có thể chủ động điều tiết tiền tệ theo mục tiêu đã định.
Một vấn đề nữa là NHNN cũng đã nhận thức rõ ràng hơn rằng việc sử dụng các
biện pháp can thiệp để duy trì tỷ giá ổn định về lâu dài sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến sự
phát triển của thị trường ngoại hối và hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, NHNN dường
như vẫn chưa có đủ sự tự chủ cần thiết để xây dựng và thực thi một chính sách tiền tệ
đủ hiệu lực và một chính sách tỷ giá linh hoạt hơn. Trên thực tế, NHNN đã thiên về mục
tiêu ngắn hạn hơn là cân nhắc đầy đủ hơn đến các mục tiêu dài hạn. Điều này đang hạn
chế khả năng điều chỉnh linh hoạt chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá trước những
biến động kinh tế vĩ mô, nhất là trong bối cảnh lạm phát có khả năng còn đứng ở mức
tương đối cao trong thời gian tới.
2. Đối với năm 2007:
Ngay từ đầu năm 2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có ý kiến chỉ đạo về nhiệm
vụ ngân hàng năm 2007 là “Yêu cầu đặt ra là phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế
cao ở mức 8,5%. Ngành Ngân hàng cần phải tranh thủ thời cơ, đóng góp tích cực vào
việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững, hiệu quả. Ngân hàng
6
Nhà nước (NHNN) cần nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của
NHNN, làm tốt hơn công tác tham mưu cho Chính phủ và triển khai điều hành tốt chính
sách tiền tệ (CSTT) để đảm bảo ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát; vận hành các công
cụ CSTT theo cơ chế thị trường; đồng thời, có những cảnh báo sớm về diễn biến thị
trường để tránh gây đột biến, dẫn tới đỗ vỡ trên tổng thể”.
Các giải pháp điều hành CSTT
Thực hiện ý kiến chỉ đạo nêu trên, NHNN trong thực thi CSTT đã bám sát mục tiêu
hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, đảm bảo sự ổn định tiền tệ, ổn định hệ
thống ngân hàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế cao, bền vững trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế - nhiều
thuận lợi, nhưng cũng không ít thách thức. Trên cơ sở đánh giá và dự báo kịp thời chiều
hướng biến động của kinh tế tiền tệ trong nước và quốc tế, trong năm 2007, NHNN đã
thực hiện các giải pháp điều hành CSTT như sau:
Thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND gây bất
lợi cho tăng trưởng kinh tế.
Trong phạm vi khối lượng tiền cung ứng tăng được Chính phủ phê duyệt năm 2007,
NHNN đã sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT để điều tiết có hiệu quả khối lượng tiền
cung ứng này, nhằm đạt mục tiêu mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, hạn chế
sức ép tăng giá đồng Việt Nam, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối, nhưng đồng thời
cũng hút mạnh lượng tiền đã cung ứng ra cho mục đích mua ngoại tệ để giảm mức độ
dư thừa vốn khả dụng của các NHTM, hạn chế sự giá tăng của tổng phương tiện thanh
toán (TPTTT), qua đó giảm áp lực lạm phát. Cụ thể:
- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã hút được một lượng tương đối lớn
vốn khả dụng dư thừa của các TCTD, đồng thời vẫn điều tiết kịp thời sự thiếu hụt vốn
mang tính thời điểm của một số TCTD, đảm bảo duy trì ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất
thị trường.
- Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để
hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng trưởng tín
dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong những tháng
cuối năm.
- Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHNN công bố, nhằm phát tín hiệu ổn
định lãi suất thị trường. Đồng thời, trong điều kiện nguồn cung ngoại tệ dồi dào, từ
01/03/2007, NHNN đã chính thức thực hiện bỏ qui định về trần lãi suất tiền gửi USD
của pháp nhân tại TCTD để hoàn toàn tự do hóa lãi suất thị trường, phù hợp với tiến
trình hội nhập quốc tế.
- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết
khấu trong hạn mức phân bổ.
Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện mở cửa thị
trường tài chính.
- Ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25%
lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%. Đồng thời NHNN đã
7
thực hiện việc mua ngoại tệ theo nhu cầu bán của các NHTM, Kho bạc Nhà nước và các
tổ chức quốc tế với tỷ giá phù hợp để hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam và tăng
cường mức dự trữ ngoại hối Nhà nước. Chênh lệch giữa tỷ giá mua ngoại tệ của NHNN
và tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng đã được thu hẹp, phản ánh sát cung
cầu ngoại tệ trên thị trường.
- Thực hiện Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ,
NHNN đã duy trì hạn mức Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng bằng 30% tổng dự trữ ngoại
hối nhà nước, (xác định theo quý) với biên độ +/- 10% thay vì xác định hạn mức theo
giá trị tuyệt đối như trước đây. Việc xác định hạn mức như vậy cho phép NHNN tăng
cường tính linh hoạt trong điều hành tỷ giá, kịp thời ứng phó với các rủi ro đảo chiều
của các nguồn vốn, đặc biệt là các nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài.
- NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu thanh
khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính theo tuần
nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối năm 2006 lên
gần 18 tuần năm 2007.
- Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Ngoại hối;
triển khai thực hiện Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục
tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tăng
tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát.
Bên cạnh việc sử dụng các công cụ CSTT để thu hút tiền dư thừa của các TCTD để
hạn chế việc mở rộng quá mức đầu tư tín dụng và tăng TPTTT, NHNN tiếp tục thực
hiện hoàn thiện cơ sở pháp lý và yêu cầu các TCTD thực hiện các quy định về kiểm soát
rủi ro, quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm
kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như:
- Yêu cầu các TCTD tiếp tục thực hiện Công văn số 7318/NHNN-CSTT ngày
25/8/2006 về việc thực hiện một số biện pháp để kiểm soát việc cho vay đầu tư, kinh
doanh chứng khoán ở mức hạn chế và đảm bảo an toàn. Ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-
NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư,
kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong
đó có qui định khống chế dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh
doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng của TCTD ;
- Ban hành Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 sửa đổi, bổ sung
Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định các TCTD không được
cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trực thuộc hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh
chứng khoán, không được cho vay không có bảo đảm đối với các khoản vay nhằm đầu
tư, kinh doanh chứng khoán và trong thời hạn 1 năm kể từ ngày Quyết định 03 có hiệu
lực, các TCTD phải điều chỉnh để đáp ứng các quy định trên.
- Đồng thời, bổ sung sửa đổi quy định về tín dụng, trích lập và sử dụng dự phòng
rủi ro phù hợp với chuẩn mực quốc tế và yêu cầu tăng cường năng lực tài chính của
NHTM khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, hệ số rủi ro của các khoản cho vay để đầu tư
chứng khoán, các khoản cho vay đối với công ty chứng khoán nhằm kinh doanh, mua
8
bán chứng khoán được nâng lên mức 150% (theo quy định tại Quyết định số
457/2005/QĐ-NHNN là 100%);
- Ban hành văn bản số 3224/NHNN-CSTT ngày 10/4/2007 quy định việc các TCTD
báo cáo định kỳ về hoạt động cho vay đầu tư chứng khoán, cho vay có bảo đảm bằng
cầm cố chứng khoán, ủy thác đầu tư và chiết khấu giấy tờ có giá nhằm phục vụ việc
giám sát thường xuyên hoạt động cho vay đối với nhu cầu vốn này và có các giải pháp
xử lýý? kịp thời; ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy
mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán và các văn bản
hướng dẫn lộ thực hiện đối với các NHTM đã cho vay vượt mức khống chế tỷ lệ 3%,
giảm dần cho đến thời điểm 31/12/2007 phải đảm bảo tỷ lệ 3%; tăng cường thanh tra,
giám sát việc mở rộng quy mô và chất lượng tín dụng theo Chỉ thị này.
- Ban hành Chỉ thị số 06/2007/CT-NHNN ngày 02/11/2007 về yêu cầu các tổ chức
tín dụng và các đơn vị trực thuộc NHNN thực hiện các giải pháp đảm bảo khả năng
thanh toán và kiểm soát tổng phương tiện thanh toán.
- Tổ chức họp với các NHTM và NHNN chi nhánh thành phố Hà Nội, Đà Nẵng,
Cần Thơ, Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh để triển khai thực hiện các giải pháp cụ
thể về tiền tệ, tín dụng. NHNN đã chỉ đạo các NHTM tích cực tham gia nghiệp vụ thị
trường mở, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với một số lĩnh
vực có độ rủi ro cao như cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán, cho vay kinh
doanh bất động sản, cho vay bằng ngoại tệ, cho vay tiêu dùng.
- Tiến hành thanh tra tại các TCTD về hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh chứng
khoán, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố chứng khoán.
Những kết quả đạt được:
Với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn định tiền
tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi trường
thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết quả sau:
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về lãi
suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính quốc
tế
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày giữa
tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất huy động
và cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm
2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Tính đến
cuối tháng 9/2007, huy động vốn của các TCTD tăng 31,2%, ước cả năm tăng 39,6%,
cao hơn tốc độ tăng 33,1% của năm 2006; tín dụng đến cuối tháng 9 tháng tăng 30,9%,
ước cả năm tăng 37,8%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 22,8% của năm 2006).
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ), trong
bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn
định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên thị
trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định
lãi suất VND.
9
- Diến biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo
chiều hướng tích cực
+ Tỷ lệ tiền mặt trên TPTTT giảm từ mức 19,3% năm 2006 xuống mức 17,8% năm
2007.
+ Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm
2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế.
- Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế
+ Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các TCTD có những diễn biến tích cực, các
sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn nhiều so với những năm trước đây,
nhiều lĩnh vực cho vay đầu tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều
điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng để phát triển sản xuất, tạo công ăn
việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần ổn định xã hội, cho vay phát triển nông nghiệp
nông thôn, cho vay chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ sản xuất kinh doanh vùng khó
khăn cũng được mở rộng, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo.
Bên cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được mở ra rất đa dạng đáp ứng đầy đủ các
nhu cầu của xã hội.
+ Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và giảm dần
cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán
phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản cũng được theo dõi, giám sát
chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động ngân hàng và
thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bến vững.
+ Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là 2,2%, có xu
hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của các
nhóm TCTD đều giảm. Cụ thể là: tỷ lệ nợ xấu của các NHTM nhà nước là 2,8% (giảm
0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các NHTM cổ phần là 1,26% (giảm 0,34%); tỷ lệ nợ xấu của
các ngân hàng liên doanh và chi nhánh nước ngoài là 0,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu
của các TCTD khác là 2,4% (giảm 0,5%).
Những thách thức phải đối mặt:
Có thể nói, điều hành CSTT năm 2007 về cơ bản, đạt đuợc mục tiêu đặt ra, tuy
nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, cùng với việc Việt Nam gia
nhập WTO nên việc điều hành CSTT đã phải đối mặt với nhiều thách thức làm cho việc
thực hiện mục tiêu ban đầu còn có hạn chế nhất định.
Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2007 phải đối mặt, đó là dòng vốn
đầu tư nước ngoài vào nhiều (Theo số liệu thống kê đến tháng 10/2007, doanh số phát
sinh tiền gửi bằng VND của người không cư trú tại các NHTM thì có khoảng 13 tỷ USD
của người không cư trú được chuyển cho người cư trú cho mục đích đầu tư vào thị
trường chứng khoán, đầu tư vào bất động sản và chi tiêu các nhu cầu tiêu dùng khác
trong nước). Tình hình này đã có tác động làm tăng tổng phương tiện thanh toán của nền
kinh tế ( tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép làm VND lên giá; dự trữ vượt của
hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một nhân tố thúc đẩy tín dụng tăng nhanh; dòng vốn
đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có tác động thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển
10
mạnh hơn, và một lượng vốn nhất định cuả dân cư cũng như từ hệ thống ngân hàng
được đầu tư trên thị trường chứng khoán, qua đó đã làm tăng dư nợ cho vay nền kinh tế;
cùng với việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài là sự tăng giá khó lường mang
tính toàn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu thô, giá lương thực, bên cạnh đó là
hạn hán lũ lụt, dịch bệnh gia cầm trong nước đã có tác động mạnh đến mức mức giá tiêu
dùng nói chung. Trong bối cảnh trên, CSTT phải cùng một lúc đạt hai mục tiêu là vừa
phải hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế đạt 8,5%, vừa phải kiềm chế lạm phát dưới
mức tăng trưởng là cực kỳ khó khăn. Giải pháp ổn định lãi suất và tỷ giá danh nghĩa hỗ
trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế và ổn định thị trường tiền tệ không để xẩy ra sự dịch
chuyển dòng vốn, nhưng lại rất khó khăn để kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế
và kiềm chế lạm phát.
Chính vì vậy, NHNN đã gặp khó khăn trong việc kiểm soát TPTTT, tín dụng, qua
đó đã chưa kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu đặt ra: TPTTT của Việt Nam tăng
mạnh trong năm 2007 là khó tránh khỏi khi dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều như
năm nay. Muốn hạn chế gia tăng TPTTT, thì cần phải hạn chế sự gia tăng của dòng vốn
này. Tuy nhiên, hạn chế dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là vấn đề không đơn
giản khi Việt Nam đã gia nhập WTO, thị trường tài chính từng bước tự do hóa. Vì vậy,
việc hạn chế sự gia tăng nguồn vốn nước ngoài nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN,
mà đòi hỏi phải có chính sách vĩ mô đồng bộ để đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn nước
ngoài có hiệu quả, giám sát chặt chẽ luồng vốn đầu tư gián tiếp, hạn chế tình trạng đầu
cơ trên thị trường chứng khoán,… nhằm hạn chế những tác động bất lợi của dòng vốn
này.
Bên cạnh đó, việc Việt Nam gia nhập WTO tạo cơ hội thuận lợi cho hệ thống ngân
hàng Việt Nam phát triển, qui mô các NHTM được mở rộng, các doanh nghiệp cũng có
nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh đã gây sức ép mở rộng tín
dụng tăng quá nhanh của các NHTM, gây tiềm ẩn rủi ro: tốc độ tăng trưởng tín dụng
của các NHTM cao hơn nhiều so với các năm từ năm 2001 - 2006, nhất là tín dụng
ngoại tệ tăng hơn gấp hai lần, bắt đầu vượt ngưỡng an toàn (tỷ trọng giữa dư nợ cho vay
bằng ngoại tệ với tổng tiền gửi bằng ngoại tệ đã vượt 90%); cơ cấu đầu tư tín dụng đa
dạng hơn nhiều so với cơ cấu đầu tư của 5 năm trước đó, ngoài các lĩnh vực cho vay
truyền thống thì lĩnh vực cho vay tiêu dùng đã phát triển nhanh hơn những năm trước.
Dư nợ tín dụng trong lĩnh vực này chiếm đến 20 - 30% tổng dư nợ của khối NHTMCP.
Riêng cho vay nhà đất có NHTM dư nợ chiếm đến 20%; thị trường chứng khoán phát
triển mở ra một lĩnh vực đầu tư mới cho các NHTM, cũng góp phần làm tăng dư nợ tín
dụng nền kinh tế. Sự phát triển nhanh của thị trường tín dụng cũng đã xuất hiện những
dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro, như cho vay ngoại tệ tăng trưởng quá mức so với nguồn vốn;
việc nới lỏng các điều kiện vay vốn của các NHTMCP; các lĩnh vực cho vay bất động
sản, chứng khoán đã chiếm tỷ lệ không nhỏ trong tổng dư nợ ở một số NHTM Thực tế
này đòi hỏi phải tăng cường việc quản lý, giám sát rủi của các cơ quan quản lý tiền tệ
mà trực tiếp là NHNN, cũng như từ chính các NHTM; thêm vào đó, việc dư thừa vốn
khả dụng làm giảm hiệu quả thực thi CSTT của NHNN và làm tăng khả năng mất cân
đối kỳ hạn cho hoạt động của các NHTM: Vốn khả dụng của các NHTM dư thừa và đầu
tư giấy tờ có giá tăng mạnh: cũng như năm 2006, diễn biến tiền tệ nổi bật trong năm nay
là vốn khả dụng của các TCTD xét trên bình diện toàn hệ thống thì thường xuyên dư
thừa ở mức cao.
11
Nhìn chung, năm 2007 thực thi CSTT của NHNN là cực kỳ khó khăn bởi tác động
bất lợi của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam quá lớn trong năm, cùng với
những diễn biến phức tạp của giá cả những mặt hàng chủ yếu và những nhu cầu hội
nhập của nền kinh tế. Mặc dầu vậy, về cơ bản, điều hành CSTT đã đạt được sự ổn định
tiền tệ, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho phát
triển kinh tế, song năm 2008, thực thi CSTT vẫn tiếp tục phải đối mặt với những thách
thức do dòng vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục gia tăng và những biến động khó lường
của thị trường tài chính quốc tế, cùng với biến động của giá cả thế giới. Điều đó đòi hỏi
NHNN tiếp tục thực hiện CSTT chặt chẽ và cần có những giải pháp mang tính dài hạn
để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động bất lợi của những thách thức phải đối mặt
3. Đối với năm 2008:
Trong năm 2008, kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Tăng trưởng kinh tế
toàn cầu sụt giảm đáng kể do tác động lan truyền của khủng hoảng cho vay bất động sản
dưới chuẩn của Mỹ. Các nền kinh tế phát triển đều rơi vào suy thoái. Chính phủ các
nước phải thực thi các giải pháp cứu trợ kinh tế trị giá hàng nghìn tỷ đôla Mỹ và liên
tiếp cắt giảm lãi suất chủ đạo, bơm thanh khoản vào hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, tác
động của các giải pháp này còn chưa rõ ràng và khủng hoảng kinh tế toàn cầu được dự
báo sẽ còn tiếp diễn trong năm 2009 và sẽ có tác động mạnh tới các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam.
Diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới khiến cho kinh tế Việt Nam gặp nhiều thách
thức. Trong những tháng đầu năm 2008, tỷ lệ lạm phát gia tăng nhanh trong khi thị
trường bất động sản và thị trường chứng khoán bắt đầu suy yếu. Chính phủ đã kịp thời
triển khai 8 nhóm giải pháp lớn nhằm kiềm chế lạm phát, tăng trưởng bền vững và đảm
bảo an sinh xã hội. Trong 6 tháng đầu năm, do biến động giá trên thị trường thế giới,
nhập siêu của Việt Nam đã tăng mạnh. Tính tới cuối tháng 6, nhập siêu đã lên tới 14,8
tỷ USD, đe dọa sự bền vững của cán cân thanh toán và gây áp lực lên tỷ giá USD/VND.
Tới cuối quý III/2008, các nhóm giải pháp của Chính phủ đã mang lại những kết quả
bước đầu với việc nhập siêu giảm, lạm phát được kiềm chế. Tuy nhiên, sự suy thoái
kinh tế toàn cầu đã bắt đầu có tác động tiêu cực tới xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng của
kinh tế Việt Nam và Chính phủ đã đề ra 5 nhóm giải pháp mới để chủ động ngăn chặn
đà suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Trong bối cảnh kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới, mức độ tự
do hóa các giao dịch vốn tương đối cao, biến động của các luồng vốn đầu tư, đặc biệt là
luồng vốn gián tiếp đã ảnh hưởng mạnh tới cung cầu ngoại tệ và tỷ giá. Trong năm
2008, luồng vốn đầu tư gián tiếp đã liên tục biến động, khiến cho cung cầu ngoại tệ mất
cân đối. Luồng vốn này gia tăng đáng kể trong ba tháng đầu năm, gây áp lực tăng giá
VND, sau đó có dấu hiệu đảo chiều làm tăng cầu ngoại tệ khi tình hình kinh tế thế giới
tiếp tục khó khăn, kinh tế trong nước đối mặt với lạm phát, nhập siêu tăng cao. Sau khi
có dấu hiệu tăng nhẹ trở lại do kinh tế vĩ mô Việt Nam diễn biến khả quan, trong các
tháng cuối năm, tình trạng khủng hoảng thị trường tài chính quốc tế lại khiến cho các
nhà đầu tư có xu hướng rút vốn về nước để bảo đảm thanh khoản của các tổ chức ở
chính quốc.
Những biến động khó lường của kinh tế và thị trường tài chính thế giới cũng như
trong nước đã ảnh hưởng tiêu cực tới cân bằng cung cầu ngoại tệ trong nước. Tuy nhiên,
12
với sự chỉ đạo sát sao của Thủ tướng Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ,
ngành, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã điều hành tỷ giá linh hoạt, thực hiện được các
mục tiêu của chính sách tỷ giá, đảm bảo thanh khoản ngoại tệ của hệ thống ngân hàng,
góp phần thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế
vĩ mô, cụ thể là:
- NHNN đã can thiệp thị trường ngoại hối với mức tỷ giá mua vào và bán ra được
điều chỉnh linh hoạt. Trong thời điểm thị trường dư cầu, NHNN đã kịp thời bán ngoại tệ
can thiệp, hạ nhiệt thị trường. Trong thời điểm thị trường dư cung, NHNN mua ngoại tệ
vào ở mức hợp lý, bảo đảm tỷ giá không giảm sâu, nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế
nhập siêu.
- Trong hoạt động can thiệp, NHNN đã kết hợp đa dạng, linh hoạt các hình thức can
thiệp. Bên cạnh can thiệp trực tiếp, lần đầu tiên NHNN áp dụng hình thức can thiệp gián
tiếp để ổn định tâm lý thị trường. Với sự phối hợp tốt giữa NHNN với các ngân hàng
thương mại (NHTM), hình thức can thiệp này đã nhanh chóng phát huy hiệu quả, đưa
thị trường bình ổn trở lại.
- NHNN đã phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng làm tốt công tác tuyên
truyền, củng cố lòng tin trong nhân dân và doanh nghiệp.
- Việc điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá đã được phối hợp đồng bộ.
Lãi suất VND tăng trong khi lãi suất USD giảm đã tạo sự hấp dẫn cho tiền đồng, góp
phần ổn định tỷ giá.
Trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ và tỷ giá trên thị trường biến động phức tạp, có
những thời điểm biến động đột biến, NHNN đã kịp thời bám sát diễn biến thị trường,
thường xuyên giám sát, cập nhật thông tin và đánh giá các dòng vốn vào và ra để có
chính sách điều hành tỷ giá thích hợp.
Đặc biệt, thời điểm giữa tháng 6, thị trường có nhiều biến động đột biến, NHNN đã
chủ động thực hiện các giải pháp kịp thời, đồng bộ, thực hiện từng bước các giải pháp
chính sách, tập trung vào giai đoạn cuối tháng 6. Cụ thể:
Điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 2% để phản ánh sát hơn cung cầu
thị trường;
Mở rộng biên độ tỷ giá giao dịch USD/VND từ mức ±1% lên mức ±2% so với tỷ
giá bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố;
Tăng mạnh lãi suất cơ bản tập trung nguồn tiền đồng vào hệ thống ngân hàng, kiềm
chế lạm phát và giảm áp lực lên tỷ giá;
Công bố mức dự trữ ngoại hối Nhà nước, củng cố lòng tin thị trường;
Yêu cầu các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối nghiêm túc chấp
hành quy định về biên độ tỷ giá giữa VND và USD, thực hiện niêm yết và giao dịch
theo đúng quy định;
Tăng cường bán ngoại tệ cho các NHTM để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh
tế, đáp ứng tối đa các nhu cầu thiết yếu như nhập khẩu xăng dầu, thuốc chữa bệnh,
13

Xem chi tiết: Kinh tế Vĩ mô


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét