Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014

Một số vấn đề về bảo đảm tiền vay trong cho vay của ngân hàng thương mại , nghiên cứư tại chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân

Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Phạm Thị Hạnh

sau đó cùng với sự phát triển của xã hội, hoạt động ngân hàng cũng trở nên
tinh vi và phức tạp hơn. Nhà ngân hàng do đó cũng có nhiều kiến thức và
kinh nghiệm xử lý tình huống hơn dẫn đến việc thực hiện hoạt động này
ngày càng mang tính sắc sảo và tinh vi hơn. Có thể nói hoạt động cho vay
là hoạt động chủ yếu để có thể bù đắp đợc chi phí lãi tiền gửi và các chi phí
liên quan. Điều này không phủ nhận vai trò cũng hết sức to lớn của các
hoạt động khác cũng đang phát triển và cần đợc phát triển mà chỉ cho thấy
rõ hơn tầm quan trọng của hoạt động cho vay trong hoạt động của ngân
hàng thơng mại. Hoạt động cho vay cũng chính là cơ sở để ngân hàng trở
thành ngời tạo tiền khổng lồ cho nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ
chu chuyển vốn trong nền kinh tế, mở rộng tái sản xuất và bình quân hoá tỷ
suất lợi nhuận. Hoạt động này vừa phải đảm bảo duy trì mức lợi nhuận cao
cho ngân hàng, lại vừa phải đảm bảo cho tính an toàn trong hoạt động của
nó. Khó có thể nói hết đợc vai trò to lớn của hoạt động cho vay nhng những
phân tích ở trên ít nhiều đã khẳng định đợc tầm quan trọng của nó.
Nh đã nói ở trên, hoạt động cho vay xuất hiện từ rất sớm và từ đó đến nay
đã có những bớc phát triển to lớn đa ngân hàng trở thành nhân tố quan
trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Song cho dù có phát triển đến đâu thì
do hoạt động của ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro và mang tính hệ thống
cao nên hoạt động này đều phải dựa trên nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và
có lãi. Chính điều này đặt ra vấn đề đảm bảo tiền vay trong cho vay của
ngân hàng thơng mại và cũng là cơ sở để nghiên cứu đề tài: Những vấn đề
cơ bản về bảo đảm tiền vay trong cho vay của ngân hàng thơng mại tại
ngân hàng công thơng Thanh xuân.
Trang: - 5 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Phạm Thị Hạnh

Vấn đề đảm bảo tiền vay trong cho vay của ngân
hàng thơng mại.
Khái niệm và đặc điểm của đảm bảo tiền vay.
Khái niệm.
Theo quan điểm truyền thống, bảo đảm tiền vay là việc bảo vệ quyền lợi
của ngời cho vay dựa trên cơ sở thế chấp, cầm cố tài sản thuộc sở hữu của
ngời đi vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
Với quan điểm trên thì chỉ khi có tài sản cụ thể thì khoản cho vay mới đợc
công nhận là có bảo đảm, còn lại thì đợc coi là không có bảo đảm. Ta hãy
phân tích quan điểm này.
Đây là một cái nhìn rất trực quan, nó cho thấy rằng đối với một khoản cho
vay nếu nguồn thu nợ thứ nhất nh lợi nhuận, khấu hao hay thu nhập từ lơng,
cổ tức không đợc thực hiện thì đã có nguồn thứ hai là những tài sản bảo
đảm nh trên. Thế nhng câu hỏi đặt ra là giả sử có khách hàng muốn xin vay
và có tài sản thế chấp hoặc cầm cố mà mục đích sử dụng không rõ ràng
hoặc có mục đích sử dụng nhng không hợp pháp thì ngân hàng có thể quyết
định đồng ý cho vay? Bên cạnh đó không phải lúc nào tài sản đảm bảo
cũng thực sự an toàn, chẳng hạn đối với tài sản cầm cố nhng không có đăng
ký quyền sở hữu và lại nhờ quản lý ở kho khách hàng hoặc thuê kho; còn
đối với tài sản thế chấp là bất động sản thì luôn tiềm ẩn nguy cơ hao mòn
hữu hình và vô hình Mặt khác nếu chỉ dựa vào lợng tài sản này mà không
có các biện pháp thu hồi nợ hoặc không có các biện pháp xử lý, khi xảy ra
tình huống bất ngờ làm tiêu hao tài sản của khách hàng thì lúc đó khoản
cho vay đã trở thành nợ khó đòi. Lúc đó thì mục tiêu thu hồi đợc các khoản
nợ đã không đợc bảo đảm. Nh vậy quan điểm này là hoàn toàn thiếu sót.
Vậy chúng ta sẽ quan niệm bảo đảm tiền vay nh thế nào cho đúng. Quay
trở lại với lý do đặt ra vấn đề bảo đảm tiền vay trong cho vay của ngân hàng
thơng mại. Ta đã khẳng định đó chính là nguyên tắc hoàn trả trong cho vay,
tức là các khoản cho vay sau một thời gian đã xác định thì phải đợc quay về
ngân hàng với đầy đủ cả gốc và lãi. Nh vậy vấn đề bảo đảm tiền vay phải đ-
ợc thực hiện theo cả một quá trình và nó cần nhiều hơn so với việc chỉ đòi
hỏi tài sản cầm cố hay thế chấp. Nó phải là tất cả các công việc mà cả ngân
hàng và khách hàng phải làm để có đợc một khoản tín dụng an toàn và hiệu
quả. Điều này có nghĩa là khi có một nhu cầu về vốn thì ngân hàng phải
Trang: - 6 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Phạm Thị Hạnh

thực hiện phân tích, đánh giá khách hàng cũng nh phơng án sử dụng vốn
của khách hàng, đa ra các phơng án trả nợ của khách hàng. Sau khi giải
ngân thì cán bộ tín dụng phải thờng xuyên theo dõi tiến trình sử dụng vốn
của khách hàng cũng nh các vấn đề liên quan và nếu xảy ra tình trạng mất
khả năng trả nợ thì cả hai sẽ phải bàn bạc để đa đến quyết định cuối cùng.
Cũng trong quá trình đó thì nhiệm vụ của ngân hàng trong vấn đề bảo đảm
tiền vay chính là phải thực hiện quá trình phân tích thẩm định một cách
mau lẹ và chính xác; sau đó phải thực hiện giải ngân đầy đủ đúng hạn để
đảm bảo vốn đến đợc đúng vào lúc khách hàng cần. Điều này sẽ đảm bảo
đợc tính hiệu quả cho khách hàng trong việc sử dụng vốn và đó cũng chính
là cơ sở để khách hàng thu hồi đựơc vốn đem trả cho ngân hàng. Tất cả
những điều trên sẽ đảm bảo cho nguyên tắc hoàn trả không bị phá vỡ.
Với sự phân tích ở trên, có thể hiểu rằng bảo đảm tiền vay chính là tất
cả các biện pháp thực hiện để vốn cho vay ra phải quay về với ngân hàng
sau một thời gian xác định với đầy đủ cả gốc và lãi.
Đặc điểm.
Theo nh sự phân tích ở trên chúng ta có thể khái quát một số đặc điểm của
bảo đảm tiền vay nh sau:
a) Bảo đảm tiền vay tồn tại trong mọi quan hệ tín dụng.
Không phải ngẫu nhiên mà ngân hàng trao cho khách hàng của mình sử
dụng tiền mà ngân hàng đã phải trả tiền để có đợc chỉ để nhận đợc một tờ
giấy chứng nhận. Tín dụng có một tính chất đặc biệt là vốn cho vay ra phải
đợc hoàn trả trở lại. Do đó bất kỳ một khoản tín dụng nào mà ngân hàng
cấp cho khách hàng cũng cần có bảo đảm.
Tín dụng dựa trên lòng tin của một bên đối với bên kia về khả năng họ sẽ
hoàn trả số tiền nhận đợc cộng với số lãi nhất định đã thoả thuận. Lòng tin
này đợc xây dựng trên cơ sở khả năng tài chính và uy tín của mỗi bên. Có
thể không cần tài sản cầm cố thế chấp nhng tuyệt đối không thể thiếu đợc
lòng tin. Cả hai phía đối tác đều đòi hỏi bên kia về khả năng tài chính lành
mạnh, khả năng thực hiện đúng những điều khoản hợp đồng. Ngời cho vay
yêu cầu khoản tiền vay đợc sử dụng đúng mục đích, ngời đi vay lại yêu cầu
ngời cho vay cung cấp tiền đầy đủ, kịp thời. Chỉ khi đảm bảo đợc điều đó
thì quan hệ tín dụng mới tồn tại. Bởi vậy bảo đảm tiền vay tồn tại trong mọi
quan hệ tín dụng.
Trang: - 7 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Phạm Thị Hạnh

b) Thành công của khàch hàng là sự bảo đảm cao nhất cho khoản vay
nhng yếu tố quyết định cuối cùng lại là đạo đức của ngời vay.
Tất cả các biện pháp thực hiện đều nhằm mục đích cuối cùng là thu hồi đ-
ợc vốn đã cho vay. Do đó ngân hàng phải thẩm định để lựa chọn dự án khả
thi, theo dõi kiểm tra tiến trình sử dụng vốn của khách hàng và phối hợp xử
lý nếu có rủi ro xảy ra. Khi dự án triển khai hiệu quả thì không những đem
lại thu nhập cho ngời lao động, đem lại nguồn thu cho Ngân sách Nhà nớc,
lợi nhuận cho chủ đầu t mà còn có tiền để trả cho ngân hàng. Đây chính là
điều mà ngân hàng và khách hàng cùng mong đợi. Nh vậy thành công của
khách hàng chính là sự đảm bảo cao nhất cho các khoản tín dụng.
Song ngay cả trong trờng hợp khách hàng thành công thì khả năng ngân
hàng không thu đợc nợ vẫn có thể xảy ra. Nếu khách hàng cố trì hoãn việc
trả nợ trong trờng hợp họ có thể làm đợc điều đó thì không còn là bảo đảm
tiền vay nữa. Yếu tố đạo đức đợc nói đến ở đây là dù trong trờng hợp nào
thì ngời đi vay cũng phải coi bảo đảm tiền vay luôn gắn liền với quá trình
thực hiện dự án và gắn liền với sự thành công của mình. Điều này có nghĩa
là luôn phải có sự thôi thúc từ chính bản thân họ rằng phải thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ của mình đối với ngân hàng.
Vai trò của bảo đảm tiền vay.
a) Đối với ngân hàng.
Không phải ngẫu nhiên mà bảo đảm tiền vay là yếu tố đợc nhắc đến trong
mọi quan hệ tín dụng. Và nếu đảm bảo tiền vay thành công, không những
ngân hàng đảm bảo đợc khả năng hoàn trả vốn vay mà còn sản sinh lợi
nhuận, đảm bảo hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Đối với những khoản vay mà ngân hàng không đòi hỏi tài sản bảo đảm thì
ngân hàng phải thẩm định khách hàng một cách chặt chẽ hơn, nhờ đó mà
chất lợng tín dụng đợc nâng cao, khả năng thẩm định của cán bộ tín dụng
cũng đợc cải thiện. Mặt khác những tài sản mà lẽ ra doanh nghiệp phải đem
đảm bảo sẽ đợc dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu
qủa hoạt động của doanh nghiệp, tạo điều kiện tốt hơn để doanh nghiệp
hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. Tất cả những điều trên sẽ làm cho mối
quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng trở nên khăng khít hơn. Đây là một
điều mà cả ngân hàng và khách hàng cùng mong đợi.
Trang: - 8 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Phạm Thị Hạnh

Đối với những khoản vay mà ngân hàng đòi hỏi tài sản bảo đảm sẽ tạo
tâm lý mạnh dạn cho ngân hàng khi đa ra quyết định cho vay, nh vậy sẽ
dẫn đến kết quả là ngân hàng mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế.
Cần phải nhắc lại rằng không một khoản tín dụng nào đợc ngân hàng cấp
mà lại không cần bảo đảm. Chỉ nh vậy thôi cũng đủ nói lên vai trò to lớn
của đảm bảo tiền vay trong quyết định cho vay của ngân hàng.
b) Đối với khách hàng.
Cũng theo nh sự phân tích ở trên, khách hàng muốn có đợc khoản vốn từ
ngân hàng thì chỉ có tạo ra sự bảo đảm cho chính khoản tiền mà mình cần.
Một số doanh nghiệp có khả năng phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu trên
thị trờng tài chính nhng trong điều kiện thị trờng tài chính cha phát triển
nh ở nớc ta hiện nay thì tín dụng ngân hàng vẫn là rất quan trọng, còn đối
với những doanh nghiệp cha có khả năng đó thí tín dụng ngân hàng đã trở
thành nguồn thiết yếu cho mở rộng sản xuất. Đấy là cha kể đến việc khi đ-
ợc ngân hàng thẩm định thì đó sẽ là lần xét duyệt thứ hai cho dự án của
khách hàng, tạo thêm cơ sở cho sự thành công của dự án.
Đa phần khách hàng đều không mong muốn phải bảo đảm bằng tài sản vì
nh vậy sẽ bị ràng buộc vào khoản vay nhng chính sự ràng buộc này lại tạo
cho họ động lực để thực hiện tốt dự án và cái lợi đầu tiên và lớn nhất mang
lại chính là lợi nhuận cho chính họ.
c) Đối với nền kinh tế.
Vai trò của bảo đảm tiền vay đối với nền kinh tế mang tính gián tiếp. Khi
chất lợng tín dụng đợc nâng cao sẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển,
tăng cờng sức mạnh cho nền kinh tế. Nó giúp cho quá trình phân phối lại
vốn tiền tệ diễn ra theo đúng yêu cầu: vốn từ nơi tạm thời nhàn rỗi chuyển
sang nơi đang cần để mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng tiêu dùng,
kích thích tổng cầu. Bảo đảm tiền vay sẽ tránh đợc sự lãng phí do vốn bị
chuyển vào những ngành làm ăn không hiệu quả hay có ý định chiếm dụng
vốn cho những mục đích xấu.
Ngành ngân hàng là một ngành kinh doanh gặp rất nhiều rủi ro, mặt khác
hoạt động của nó lại mang tính hệ thống cao. Chính nhờ bảo đảm tiền vay
đã hạn chế đợc những mất mát mà ngân hàng phải gánh chịu, tránh cho nền
kinh tế những tổn thất to lớn do sự khủng hoảng của hệ thống ngân hàng.
Tác động tích cực của bảo đảm tiền vay là góp phần củng cố niềm tin của
dân chúng vào hệ thống tài chính, tạo điều kiện để họ gửi tiền vào ngân
Trang: - 9 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Phạm Thị Hạnh

hàng nhiều hơn để phát triển sản xuất, đóng góp cho sự phát triển của xã
hội.
Bảo đảm tiền vay có tác dụng rất to lớn đối với nền kinh tế, đây là điều
không thể phủ nhận. Vì vậy Chính phủ các nớc luôn phải ban hành nhiều
văn bản pháp luật cho vấn đề bảo đảm tiền vay trong cho vay của các ngân
hàng thơng mại.
Phân loại bảo đảm tiền vay.
Theo suốt quá trình phân tích trên chúng ta có thể thấy đợc có sự phân
chia bảo đảm tiền vay thành bảo đảm bằng tài sản và bảo đảm không bằng
tài sản hay bảo đảm bằng uy tín.
Bảo đảm bằng tài sản.
Đây là hình thức mà trong đó ngân hàng (đóng vai trò là chủ nợ) đợc thừa
hởng một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của bên bảo đảm nhằm
làm căn cứ để thu hồi nợ trong trờng hợp con nợ không có khả năng hoặc
không trả nợ. Trong trờng hợp này mối quan hệ bảo đảm giữa ngân hàng và
khách hàng là quan hệ thông qua tài sản bảo đảm. Thông qua mối quan hệ
này ngân hàng sẽ có quyền định đoạt đối với số tài sản đó.
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ là một lĩnh vực
chứa đựng rất nhiều rủi ro, do đó ngân hàng đợc pháp luật giao cho một đặc
quyền trong việc xử lý nợ đối với những tài sản bảo đảm trong tròng hợp
con nợ không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên điều này không có
nghĩa là đã đảm bảo chắc chắn cho khả năng thu nợ của ngân hàng mà còn
tuỳ thuộc vào khả năng của ngân hàng trong khi đánh giá giá trị của tài sản
đảm bảo theo sự biến động của thời gian cũng nh khả năng đảm bảo của
chúng. Đây chính là một khó khăn lớn đặt ra cho ngân hàng.
Chúng ta có thể chia hình thức bảo đảm bằng tài sản thành hai loại, đó là:
bảo đảm bằng chính tài sản của ngời đi vay và bảo đảm bằng tài sản của
ngời thứ ba (ngời bảo lãnh).
Bảo đảm bằng tài sản của chính ng ời đi vay.
a) Cầm cố.
Cầm cố là hình thức theo đó ngời đi vay phải chuyển quyền kiểm soát tài
sản bảo đảm sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết (thờng là thời hạn
vay vốn).
Trang: - 10 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Phạm Thị Hạnh

Cầm cố thích hợp với những tài sản ngân hàng có thể kiểm soát và bảo
quản tơng đối chắc chắn, đồng thời việc ngân hàng nắm giữ không ảnh h-
ởng đến quá trình hoạt động của ngời nhận tài trợ, ví dụ các chứng khoán,
hợp đồng, sổ tiết kiệm, ngoại tệ mạnh, kim loại quý Các tài sản này gọn
nhẹ, dễ quản lý, không chịu ảnh hởng của các yếu tố môi trờng tự nhiên.
Đối với hàng hoá, ngân hàng thờng chấp nhận các loại ít chịu tác động của
môi trờng trong thời gian cầm cố.
Khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản bảo đảm (có thể là nắm giữ
tài sản hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản) là không an toàn thì
ngân hàng sẽ yêu cầu cầm cố, thờng đó là những tài sản dễ bán, dễ chuyển
nhợng.
Khi cho vay dựa trên tài sản cầm cố, ngân hàng kiểm tra tính hợp pháp,
hợp lệ, an toàn của vật cầm cố nh quyền sở hữu của khách hàng, khả năng
chi trả của giấy tờ, giá trị thị trờng khi phát mại Ngân hàng cùng khách
hàng định giá vật cầm cố, ký hợp đồng cầm cố, quy định nghĩa vụ của các
bên trong quá trình cầm cố, quyền phát mại tài sản cầm cố.
Trang: - 11 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Phạm Thị Hạnh

b) Thế chấp.
Thế chấp là hình thức theo đó ngời nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ
chứng nhận quyền sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản bảo đảm sang cho
ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết.
Nhiều tài sản của khách hàng trở thành bảo đảm cho các khoản tài trợ của
ngân hàng song vẫn phải tham gia vào quá trình hoạt động, những tài sản
này ngân hàng không thể cầm cố. Ví dụ nh máy móc, thiết bị, nhà xởng
đang trong quá trình sử dụng, hàng hoá đang trong quá trình luân chuyển.
Các tài sản này thờng cồng kềnh, phân tán. Hơn nữa việc bán hoặc chuyển
nhợng cũng không đơn giản. Trừ các ngân hàng, các công ty tài chính có
thể nắm giữ nhiều chứng khoán, tài sản chủ yếu của doanh nghiệp là hàng
hoá và tài sản cố định. Vì vậy, đảm bảo bằng thế chấp rất phổ biến, đặc biệt
đối với doanh nghiệp và ngời tiêu dùng. Do giá trị của loại tài sản này th-
ờng cao nên doanh nghiệp có thể vay ngân hàng với quy mô lớn.
Đảm bảo bằng thế chấp cho phép ngời nhận tài trợ sử dụng tài sản bảo
đảm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đó là một thuận lợi. Tuy
nhiên, quá trình sử dụng sẽ làm biến dạng tài sản, hơn nữa, do khả năng
kiểm soát tài sản bảo đảm của ngân hàng bị hạn chế, khách hàng có thể lợi
dụng phân tán, làm giảm giá trị của tài sản, gây thiệt hại cho ngân hàng.
Khi tài trợ dựa trên đảm bảo bằng thế chấp, ngân hàng phải xem xét kỹ vật
thế chấp. Trong hợp đồng thế chấp (ký cùng với hợp đồng tài trợ), phải có
phần mô tả vật thế chấp. Nh vậy, ngân hàng cần phải có (hoặc thuê) các
nhà chuyên môn đủ khả năng đánh giá tài sản đảm bảo. Nếu định giá quá
cao, quy mô tài trợ có thể lớn, có thể gây rủi ro cho ngân hàng. Ngợc lại,
nếu định giá quá thấp sẽ ảnh hởng đến khả năng vay của khách hàng. Sau
khi định giá, ngân hàng và khách hàng phải thoả thuận về nội quy sử dụng
bảo đảm, quyền của ngân hàng giám sát bảo đảm, phát mại bảo đảm khi
khách hàng vi phạm hợp đồng tài trợ.
Bảo đảm bằng tài sản của ng ời bảo lãnh.
Ngời thứ ba cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng
thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đợc. Đối với những
ngời bảo lãnh cha có uy tín, ngân hàng đòi hỏi phải có tài sản bảo đảm cho
bảo lãnh đó. Thực chất, việc phân chia tài sản bảo đảm theo mức độ trực
Trang: - 12 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Phạm Thị Hạnh

tiếp hay gián tiếp nh trên chỉ có ý nghĩa đối với khách hàng, còn đối với
ngân hàng thì dù đó là bảo đảm bằng tài sản của khách hàng hay của ngơì
bảo lãnh, ngân hàng cũng có quyền nh nhau đối với tài sản này trong trờng
hợp khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.
*Hiện nay việc bảo đảm bằng tài sản còn có hình thức mới đó là bảo
đảm bằng chính tài sản đợc hình thành từ vốn vay, tức là khách hàng
dùng chính tài sản có đợc do nhận tài trợ để bảo đảm cho khoản tiền vay.
Đây là biện pháp cuối cùng để ngân hàng có thể hạn chế việc khách hàng
bán tài sản đợc hình thành từ vốn vay. Tuy nhiên khi khách hàng không
có khả năng trả nợ thì phần lớn các tài sản này cũng đều bị giảm giá, khó
bán. Do đó tài sản này không bảo đảm cho ngân hàng thu đủ cả gốc lẫn
lãi. Hình thức này đợc áp dụng cho khách hàng mà các tài sản khác dùng
để bảo đảm có ít hoặc không thể trở thành tài sản bảo đảm cho ngân
hàng.
Bảo đảm bằng uy tín.
Đây là hình thức mà trong đó ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên khả
năng hoàn trả của khách hàng chứ không cần bất cứ tài sản bảo đảm nào.
Để có thể đa ra quyết định cho vay không cần tài sản bảo đảm, khách hàng
phải đáp ứng những yêu cầu do ngân hàng đặt ra. Hình thức này gồm có
bảo đảm bằng uy tín của ngời vay và bảo đảm bằng uy tín của ngời bảo
lãnh.
Bảo đảm bằng uy tín của ng ời vay.
Theo hình thức này, ngân hàng dựa trên uy tín và hiệu quả hoạt động kinh
doanh của khách hàng. Không phải đơn giản mà ngân hàng có thể giao tiền
cho khách hàng mà không đặt ra bất cứ tiêu chuẩn nào. Để có thể cho vay
theo hình thức này, ngời vay trớc hết phải chứng minh đợc tính khả thi của
dự án. Cán bộ tín dụng sẽ phải làm việc tích cực để thu thập đợc nhiều
thông tin hơn và thẩm định đúng đắn khách hàng cũng nh dự án đầu t. Đôi
khi mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng lại đóng vai trò quyết định.
Ngân hàng đánh giá uy tín của ngời vay dựa trên cơ sở khách hàng đó có
phải là khách hàng truyền thống hay không, tình hình tài chính hiện tại và
trong quá khứ có tốt không, phơng án xin vay có khả thi không.
Trang: - 13 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Phạm Thị Hạnh

Những đòi hỏi của ngân hàng đề ra phải chặt chẽ hơn và thông thờng để
có thể cho vay bằng uy tín, ngân hàng cũng phải tuân thủ nhiều ràng buộc
trong các quy định của pháp luật. Cho vay bảo đảm bằng uy tín của khách
hàng có cả những thuận lợi cũng nh những khó khăn. Thuận lợi ở chỗ nó
thúc đẩy mối quan hệ giũa hai bên, giảm bớt tính phức tạp của quy trình tín
dụng khi thực hiện món vay và cán bộ tín dụng cũng gặp phải ít khó khăn
hơn khi không phải tiến hành đánh giá theo dõi tài sản bảo đảm. Tuy nhiên
bất lợi lớn nhất chính là ngân hàng sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro lớn. Một
khi niềm tin của ngân hàng bị đặt nhầm chỗ thì lúc đó hậu quả gây ra đối
với ngân hàng sẽ không thể lờng hết đợc. Không bị ràng buộc trách nhiệm
bởi tài sản đảm bảo, nỗ lực của ngời vay khi sử dụng vốn có thể vì thế mà
giảm sút. Khi mà khách hàng không có khả năng trả nợ thì ngân hàng chỉ
còn có thể chờ đợi mà không có cơ sở pháp lý để thu hồi tiền cho vay.
Chính vì sự bất lợi này mà chủ yếu trong quan hệ tín dụng này ngân hàng
đòi hỏi khách hàng là khách hàng lâu năm, tức là sự tin tởng lẫn nhau đã
đạt đến độ chín. Mặc dù trong việc đánh giá uy tín của ngời vay bao gồm
cả việc khách hàng lâu năm. tình hình tài chính cũng nh phơng án sử dụng
vốn nhng nếu khách hàng chỉ có hai điều kiện sau đó vẫn rất khó có thể vay
mà không cần tài sản bảo đảm, bởi vì yếu tố đạo đức trong bảo đảm tiền
vay cha đợc khẳng định. Tuy nhiên lật lại vấn đề chúng ta lại cần phải nói
rằng, với bất cứ một phơng án xin vay nào thì câu hỏi đầu tiên mà ngân
hàng đặt ra cho khách hàng là vay để làm gì ?. Do đó việc thẩm định dự
án đầu t mặc dù không thể thay thế cho mối quan hệ lâu năm giữa ngân
hàng và khách hàng nhng lại là yếu tố quyết định khi có một khoản vay của
khách hàng, đặc biệt là trong trờng hợp vay không có tài sản bảo đảm. Điều
này đợc lý giải bởi thẩm định dự án là cơ sở quan trọng nhất để có đợc khái
niệm tín chấp. Do đó ở mục này vấn đề thẩm định dự án sẽ đợc đề cập
nghiên cứu.
Thẩm định dự án:
Mục tiêu cần phải đạt đợc của cán bộ tín dụng là đa ra quyết định có cho
vay hay không và nếu có thì cho vay nh thế nào và cho vay bao nhiêu.
Khi xuất hiện nhu cầu vay vốn trớc hết khách hàng cần đợc hớng dẫn để
lập hồ sơ vay vốn. Bởi vậy việc đầu tiên phải làm là giúp khách hàng có đợc
một bộ hồ sơ đầy đủ, chặt chẽ và tuân theo những quy định của pháp luật.
Trang: - 14 -

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét