Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

Một số giải pháp nhằm tăng cường tạo việc làm bền vững ở Việt Nam

CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT TĂNG CƯỜNG TẠO VIỆC LÀM BỀN VỮNG
Ở VIỆT NAM
I/ Cơ sở lý luận của việc làm bền vững
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Việc làm.
- Theo quan điểm kinh tế học lao động:
Việc làm được hiểu là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm
biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người.
- Theo Bộ luật Lao động:
Việc làm được xác định là: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”
Từ quan niệm trên cho thấy, khái niệm việc làm bao gồm các nội dung sau:
- Là hoạt động lao động của con người
- Hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận
- Hoạt động lao động đó không bị pháp luật ngăn cấm
1.2. Bền vững.
Quan niệm về cụm từ “bền vững” ở đây được gắn với cụm từ “phát triển bền
vững” bởi sự bền vững luôn luôn được gắn với sự phát triển, thiếu một trong
hai yếu tố đó thì không thể thực hiện được các mục tiêu của mỗi quốc gia.
Xuất phát từ góc độ bảo vệ môi trường, cũng là bảo vệ sự sống, vấn đề phát
triển bền vững được đề cập lần đầu tiên vào năm 1987 trong báo cáo của Uỷ
ban Môi trường và Phát triển thế giới (WCED). Theo Uỷ ban này, phát triển
bền vững là sự phát triển để đáp ứng những nhu cầu của ngày hôm nay mà
không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.
Như vậy, trong quá trình phát triển phải luôn luôn đặt ra các câu hỏi
như: Quy mô và tốc độ khai thác các tài nguyên như hiện nay có đảm bảo cho
các tài nguyên này có khả năng tái tạo đủ cung cấp cho các thế hệ tương lai
hay không? Các tài nguyên thay thế có tương xứng với các tài nguyên bị cạn
kiệt và không có khả năng tái tạo hay không?
Ở Việt Nam, phát triển bền vững được hiểu một cách toàn diện: “Phát
triển bền vững bao trùm cac mặt của đời sống xã hội, nghĩa là phải gắn kết sự
phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, gìn giữ và cải
thiện môi trường, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an
ninh”.
Như vậy, phát triển bền vững là sự phát triển trong mối liên hệ gắn kết
chặt chẽ thực hiện bốn nhóm mục tiêu lớn: mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội,
mục tiêu môi trường và an ninh quốc phòng.
Bền vững về kinh tế đòi hỏi nền kinh tế phải tăng trưởng GDP và GDP bình
quân đầu người cao; cơ cấu kinh tế phải hợp lý, đảm bảo cho tăng trưởng
GDP ổn định; lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chí phấn đấu cho tăng
trưởng.
Bền vững về xã hội lý giải một điều rằng, liệu một xã hội có thể được coi là
phát triển bình thường, nếu dân số giảm sút? Quá trình đó bao gồm: mở rộng
các cơ hội lựa chọn cho mọi người; mọi người cùng tham gia vào quá trình
phát triển và mọi người cùng được hưởng từ quá trình phát triển bền vững
này.
Bền vững về môi trường, đối với từng cá nhân cũng như cả loài người, môi
trường có 3 chức năng: là không gian sinh tồn của con người; là nơi cung cấp
tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người; là
nơi chứa đựng, xử lý, tái chế các phế thải của con người. Vì thế, môi trường
bền vững là môi trường luôn luôn thay đổi nhưng đảm bảo thực hiện cả ba
chức năng nói trên. Xã hội phát triển bền vững là xã hội mà con người có
cuộc sống chất lượng cao trên nền tảng sinh thái bền vững.
Như vậy khái niệm “bền vững” được đề cập đến trong nội dung nghiên
cứu của đề tài chính là đảm bảo đầy đủ lợi ích kinh tế - xã hội của người lao
động đó là có thu nhập ổn định, đảm bảo các nhu cầu của cuộc sống, xoá bỏ
khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp…ngoài ra, “bền vững về môi
trường cũng là một nội dung quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài
của một quốc gia.
1.3. Việc làm bền vững.
Theo Tổng giám đốc ILO, Juan somavia thì mục tiêu chính của ILO
ngày nay là tạo cơ hội cho nam và nữ có được việc làm bền vững và năng suất
trong điều kiện tự do, công bằng, an toàn và tôn trọng giá trị nhân phẩm.
Việc làm bền vững tóm tắt những khát vọng của con người trong cuộc
sống lao động của họ về cơ hội và thu nhập, quyền lợi, tiếng nói và sự thừa
nhận; sự ổn định gia đình và phát triển cá nhân; sự công bằng và bình đẳng
như nhau. Việc làm bền vững phản ánh mối quan tâm của Chính phủ, người
lao động và người sử dụng lao động, những người sẽ cùng nhau tạo ra một sự
hợp nhất về đối thoại ba bên.
Việc làm bền vững được đúc kết trong bốn chiến lược mục tiêu: Những
nguyên tắc và quyền cơ bản ở nơi làm việc và tiêu chuẩn lao động quốc tế;
công việc và cơ hội thu nhập; bảo trợ xã hội; cơ chế tham vấn ba bên và đối
thoại xã hội. Những mục tiêu này được đưa ra cho tất cả người lao động, nam
và nữ trong cả nền kinh tế chính thức và phi chính thức; trong tiền lương lao
động hoặc làm việc dựa trên tài khoản của họ; trong địa phương, xí nghiệp và
văn phòng; trong gia đình và trong cộng đồng.
Việc làm bền vững chính là kết quả của sự nỗ lực để giảm tình trạng
nghèo nàn, và nó có ý nghĩa quan trọng để đạt được sự công bằng, giới hạn
của sự phát triển. ILO làm việc để phát triển việc làm bền vững – phương
pháp định hướng cho các chính sách kinh tế - xã hội trong sự cộng tác với các
cơ quan quan trọng và sự tham gia của nhiều phía và nền kinh tế toàn cầu.
Sự phát triển đòi hỏi hành động ở cấp độ toàn cầu. ILO đang phát triển
các chương trình nghị sự cho cộng đồng nơi làm việc được miêu tả là đối
thoại ba bên để huy động nguồn lực đáng kể của họ để tạo ra cơ hội và giúp
làm giảm và trừ bỏ sự nghèo nàn. Chương trình nghị sự việc làm bền vững
đưa ra một nền tảng cho khung làm việc vững chắc và đúng đắn hơn cho sụ
phát triển toàn cầu.
ILO cung cấp sự hỗ trợ thông qua việc tham gia vào chương trình quốc
gia về việc làm bền vững qua sự phối hợp với các cơ quan của ILO. Họ xác
định những thuận lợi và mục tiêu trong khuôn khổ phát triển của quốc gia
mục đích để giải quyết những vấn đề tài chính thiếu hụt chủ yếu trong việc
làm bền vững thông qua những chương trình hiệu quả để đi theo những mục
tiêu trên.
2. Các yếu tố cấu thành việc làm bền vững.
2.1. Các quyền tại nơi làm việc.
Những nguyên tắc của nền kinh tế toàn cầu nên trở thành những mục
tiêu về nâng cao các quyền, nghề nghiệp, an toàn và cơ hội cho con người, gia
đình và các cộng đồng trên toàn thế giới. (World commission on the Social
Dimension of Globalization, 2004).
Việc đưa ra về các quyền tại nơi làm việc chính là một sự đảm bảo về
quyền lợi của người lao động và việc không sủ dụng lao động trẻ em, xoá bỏ
sự phân biệt đối xử về nghề nghiệp và bóc lột sức lao động. Các quyền tại nơi
làm việc được thể hiện trên bốn khía cạnh sau đây:
- Tự Do hiệp hội
Quyền của người lao động và người sử dụng lao động được hình thành và
tham gia vào các hiệp hội là một phần không thể thiếu của sự tự do và xã hội
mở. Đó là nền tảng cho quyền của công dân một nước phục vụ cho việc xây
dựng khuôn mẫu cho phát triển kinh tế và xã hội. Đó chính là sự thừa nhận
đúng đắn về quyền thương lượng của tập thể. Tiếng nói và sự đại diện là
những thành phần quan trọng của việc làm bền vững.
- Xoá bỏ Lao động cưỡng bức.
ILO cũng nhấn mạnh về hiệu quả luật pháp quốc gia và sự vững chắc của cơ
chế ép buộc như một sự thừa nhận của luật pháp và người lao động chống lại
một cách mạnh mẽ những người bóc lột sức lao động. Bằng sự nâng lên của
nhận thức cộng đồng, ILO tìm ra những điểm nổi bất về sự vi phạm về quyền
lao động và quyền con người.
- Xoá bỏ sự phân biệt đối xử.
Hàng trăm triệu người phải chịu đựng sự phân biệt đối xử về việc làm trên thế
giới. Nó không những vi phạm những quyền con người cơ bản nhất mà còn
gây ra hậu quả về kinh tế và xã hội. Sự phân biệt đối xử hạn chế các cơ hội,
lãng phí trí tuệ con người cần cho sự phát triển kinh tế và nhấn mạnh áp lực
xã hội và sự không bình đẳng. Cuộc chiến chống lại sự phân biệt đối xử là
phần chủ yếu của tạo việc làm bền vững và thành công này sẽ vượt ra ngoài
phạm vi nơi làm việc.
- Xoá bỏ lao động trẻ em
Có hơn 200 triệu trẻ em đang làm việc trên toàn thế giới, trong đó rất nhiều là
làm cả ngày. Chúng bị thiếu một sự giáo dục đầy đủ, sức khỏe và tự do cơ
bản. Trong đó, 126 triệu - hoặc cứ 12 trẻ em thì có 1 trẻ em trên thế giới bị
vứt bỏ tới những nơi lao động trẻ em nguy hiểm gây tổn hại tới sức khoẻ, tinh
thần và sự phát triển trí tuệ.
Như các yếu tố khác của việc làm bền vững thì xoá bỏ lao động trẻ em
chính là sự phát triển cho thấy quyền con người. Các chương trình và chính
sách của ILO đều nhằm mục đích đảm bảo trẻ em nhận được sự giáo dục và
đào tạo mà chúng cần để chúng trở thành người có ích trong việc làm bền
vững.
2.2. Tạo việc làm.
Đây là một nội dung quan trọng trong việc làm bền vững, mục đích
chính của tạo việc làm không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế như: giải quyết
việc làm, nâng cao năng suất, tạo ra thu nhập cao, ổn định cho người lao động
góp phần quan trọng vào sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng mà còn
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia nói, ngoài ra còn mang
nhiều ý nghĩa về mặt xã hội, đó chính là: giải quyết tình trạng thất nghiệp, hạn
chế các hiện tượng xã hội nổi cộm, đẩy mạnh sự phát triển của từng vùng, dần
hướng tới sự bình đẳng trong thu nhập cũng như khoảng cách giàu nghèo có
thể được thu hẹp lại.
2.3. Bảo trợ xã hội.
Mục đích để thúc đẩy chăm sóc con người và sự ủng hộ của xã hội trên
quy mô rộng lớn và trở nên có ích và không thể thiếu được cho hoà bình xã
hội, nâng cao tăng trưởng kinh tế.
2.3.1. Định nghĩa.
“Bảo trợ xã hội được hiểu một cách rộng rãi như là một loạt các chính
sách, chương trình công và tư được xã hội thực thi để đáp lại nhu cầu nảy sinh
trong những tình huống khác nhau để cân bằng sự thiếu hụt hoặc suy giảm đáng
kể của thu nhập từ công việc; để trợ giúp cho các gia đình có trẻ em cũng như
cung cấp cho mọi người với những sự chăm sóc về sức khoẻ và nhà ở”.
Mục đích của việc xây dựng hệ thống bảo trợ xã hội được thể hiện ở
các khía cạnh sau đây:
- Bảo trợ xã hội bao gồm những sự phản hồi, đáp ứng từ xã hội đối với các
mức độ về rủi ro hoặc bị mất đi/giảm đi để đáp ứng được những nhu cầu tối
thiểu được đạt được những quyền cơ bản. Những điều này bao gồm việc tiếp
cận với thu nhập, phương kế sinh nhai, việc làm, các dịch vụ giáo dục và ytế,
dinh dưỡng và nhà ở.
- Bảo trợ xã hội nhằm giải quyết các vấn đề liên quan tới việc bị mất đi hoàn
toàn và yếu thế của những người dân nghèo nhất, cũng như nhu cầu của
những người hiện không phải là người nghèo nhằm bảo trợ cho họ có thể ứng
phó với những cú sốc và những thay đổi trong cuộc đời họ (cụ thể là khi họ về
già).
- Đặc điểm của sự đáp ứng về mặt chính sách này có thể liên quan đến rất
nhiều cơ quan khác nhau như: Chính quyền Trung ương hoặc địa phương, xã
hội, dân sự (các hội thành viên hay tự nguyện, công đoàn, các tổ chức phi
chính phủ), khu vực tư nhân.
- Có hai phạm trù nổi bật về bảo trợ xã hội. Trợ giúp xã hội bao gồm những
hoạt động công được thiết kế để chuyển tải những nguồn lực tới các nhóm có
đủ điều kiện nhận sự trợ giúp do lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Bảo hiểm xã
hội là một sự trợ giúp về mặt an toàn xã hội, có nguồn tài chính xuất phát từ
những sự đóng góp và được dựa trên nguyên tắc bảo hiểm, đó là những cá
nhân hoặc hộ gia đình có nhu cầu bảo vệ bản thân họ trong việc ứng phó với
các rủi ro bằng cách kết hợp các nguồn lực của họ với những người cùng
trong hoàn cảnh như mình.
2.3.2. Các thành phần của bảo trợ xã hội.
Bảo trợ xã hội có 5 thành phần chủ chốt được đề cập trong biểu sau đây:
Biểu 2.1: Những hình thức bảo trợ xã hội.
Hình thức bảo trợ xã hội Người hưởng Lợi dự kiến
Các chương trình thị trường lao động. Lực lượng lao động tích cực bao gồm những
người mới tham gia lực lượng lao động,
những người lao động bị nghỉ việc từ những
doanh nghiệp nhà nước.
Bảo hiểm xã hội. Người lao động và những thành viên gia đình
sống phụ thuộc vào họ mà đối mặt với việc
mất nguồn thu nhập.
Những chương trình trợ giúp theo khu vực,
mang tính trợ giúp vi mô.
Người lao động trong khu vực chính thức,
nông thôn và thành thị.
Chương trình bảo vệ trẻ em. Những người sẽ tham gia vào thị trường lao
động trong thời gian sắp tới.
Trợ giúp xã hội. Hầu hết những nhóm người yếu thế (người
cao tuổi bị tàn tật), người nghèo nhất, những
người không thể tham gia thị trường lao
động, những người chịu nhiều hoàn cảnh khó
khăn, ảnh hưởng bởi các khủng hoảng,
những người bị xã hội ruồng bỏ.
2.4. Đối thoại xã hội.
ILO chỉ rõ đối thoại xã hội bao gồm sự đàm phán, tư vấn, trao đổi
thông tin giữa đại diện của chính phủ, người sử dụng lao động và nguươì lao
động về việc đưa ra quyền lợi chung. Đối thoại xã hội hiệu quả phụ thuộc
vào:
- Sự tôn trọng quyền cơ bản của tự do hiệp hội và thương lượng tập thể.
- Vững chắc, sự độc lập về tổ chức của người lao động và người sử dụng lao
động với năng lực kỹ thuật và kiến thức được yêu cầu tham gia vào đối thoại
xã hội.
- Về chính trị sẽ đưa ra các cam kết về bảo trợ xã hội trở thành phần của các
cuộc đối thoại.
- Hỗ trợ cơ quan thích hợp.
Mục tiêu chính của đối thoại xã hội là việc thúc đẩy xây dựng sự nhất
trí và sự dân chủ. Thể chế đối thoại xã hội thành công. Quá trình đó có khả
năng giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội quan trọng, khuyến khích sự
quản trị tốt, tiến bộ xã hội và hoà bình công nghiệp, ổn định và thúc đẩy phát
triển kinh tế.
II/ Sự cần thiết phải tăng cường tạo việc làm bền vững ở Việt Nam.
1. Những đòi hỏi nội tại nền kinh tế và yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới.
Việt Nam đang dần thoát khỏi tình trạng lạc hậu, phát triển và đang hội
nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế quốc tế, trong bối cảnh đó thì yêu cầu về
tạo việc làm bền vững ngày một quan trọng, tuy nhiên sẽ có những thách thức
không nhỏ cả về nội tại nền kinh tế cũng như yêu cầu của hội nhập kinh tế thế
giới.
1.1 Những đòi hỏi nội tại nền kinh tế.
- Số lượng lao động và tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, đặc biệt ở khu vực nông
thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, các vùng chậm phát triển còn rất thấp và
chậm được cải thiện. Lao động đã qua đào tạo vẫn còn nhiều bất cập so với
nhu cầu của thị trường lao động, đặc biệt là lao động lành nghề, lao động trình
độ cao phục vụ nhu cầu phát triển các ngành, các lĩnh vực sản xuất mới, các
khu công nghiệp và cho xuất khẩu lao động. Ngoài ra, ý thức tổ chức kỹ
thuật, kỷ luật lao động và kỷ luật công nghệ cũng rất cần được đưa vào
chương trình giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực.
- Chính sách lao động việc làm chủ yếu hướng vào giải quyết vấn đề tăng số
lượng việc làm, nên sự tác động đối với sự thay đổi tiến bộ về chất lượng việc
làm còn hạn chế. Mặc dù số lượng việc làm mới được tạo ra lớn và tăng liên
tục qua các năm, song phần lớn là việc làm thủ công, việc làm không cần
trình độ chuyên môn kỹ thuật. Rõ ràng là vấn đề chất lượng việc làm còn
nhiều hạn chế cần phải được nâng lên.
- Một số chính sách vĩ mô nhằm ưu tiên tạo việc làm chưa rõ ràng chính sách
đầu tư chưa thể hiện rõ vào việc ưu tiên, khuyến khích phát triển các ngành,
sản phẩm có dung lượng lao động lớn. Nhiều nguồn vốn lớn của Nhà nước
được tập trung cho các ngành, sản phẩm dung lượng vốn lớn mà tạo được ít
việc làm (xi măng, hoá chất, luyện cán thép…).
- Một số giải pháp hỗ trợ tạo việc làm, giải quyết việc làm còn chưa mạnh. Ví
dụ quy định về khoản giá trị tín dụng cho các hộ gia đình còn nhỏ (Mặc dù đã
nâng lên 20 triệu đồng/hộ nông dân), việc tổ chức dạy nghề còn chưa thực sự
gắn với nhu cầu thực tế…Chưa có những giải pháp chính sách cụ thể đối với
nhóm lao động thanh niên mới ra nhập thị trường lao động.
- Thị trường lao động kém phát triển, sức cạnh tranh yếu và có nguy cơ tụt
hậu ngày càng xa so với các loại thị trường khác trong nước cũng như so với
thị trường lao động các nước trong khu vực thể hiện ở tỷ lệ lao động làm công
ăn lương thấp, hệ thống giao dịch kém phát triển, chi phí giao dịch cao, thông
tin Thị trường lao động thiếu cập nhật và khó tiếp cận đối với đại đa số người
lao động.
- Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong nhóm tuổi từ 15-24 ở khu
vực thành thị còn rất cao ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước, cũng
như xu hướng tăng tỷ lệ thất nghiệp ở lao động đã qua đào tạo.
- Chưa có giải pháp tổng thể và hữu hiệu nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho
lao động ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, ở các vùng đô thị hoá;
chưa có giải pháp giải quyết những vấn đề xã hội phát sinh tại các khu công
nghiệp tập trung và các vùng đô thị hoá.
- Hiểu biết về luật lao động, về quyền và nghĩa vụ của cả người lao động và
chủ sử dụng lao động còn hạn chế, dẫn đến những tranh chấp lao động, kể cả
đình công xảy ra ở nhiều nơi.
- Hệ thống đảm bảo xã hội chưa hoàn thiện, chưa đảm bảo là lưới an toàn cho
các nhóm yếu thế trong thị trường lao động.
1.2. Thách thức hội nhập kinh tế thế giới.
Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam khi tham gia vào thị trường quốc
tế nói chung và thị trường lao động nói riêng đó chính là sự hoàn thiện của hệ
thống văn bản chính sách pháp luật theo các thông lệ quốc tế và sự yếu kém
về tăng trưởng kinh tế, tình trạng nhập siêu, hạ tầng kinh tế…ảnh hưởng
không nhỏ đến khả năng tạo việc làm bền vững ở Việt Nam.
- Mặc dù tốc độ xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan có
thẩm quyền được duy trì ở mức độ cao, thậm chí còn được đẩy nhanh hơn với

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét