Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

Quản lý hoạt động đào tạo của trường tư thục ngoại ngữ Việt Nam tại TP HCM

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của thời đại, là đặc điểm kinh tế - xã hội của
nhân loại trong thế kỉ XXI. Nước ta đang tiến hành CNH và HĐH, trong xu thế hội
nhập với khu vực và thế giới ; nên hiện nay hơn lúc nào hết ngoại ngữ, đặc biệt là
tiếng Anh có vai trò rất quan trọng không thể thiếu đối với sự phát triển của đất
nước. Nó không chỉ là một công cụ giao tiếp, một phương tiện thông t
in nhạy bén,
giúp cho người sử dụng nó tiếp thu các tư tưởng tiên tiến và những thành tựu khoa
học, mà còn được nâng lên như vai trò của một năng lực phẩm chất cần thiết trong sự
hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện đại, có đủ năng lực cạnh
tranh, để tạo lập những mối quan hệ cần thiết có tính quyết định cho sự thành công.

Hay nói cách khác, thì ngoại ngữ là phương tiện đặc biệt có giá trị, không thể thiếu
được đối với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập.
Toàn cầu hóa đã thúc đẩy giáo dục phát triển theo định hướng hội nhập và cạnh
tranh, chính vì thế tình hình dạy và học ngoại ngữ ngày càng đa dạng hơn và ngoại
ngữ chiếm ưu thế hiện nay là tiếng Anh. Thập niên 90 chứng kiến sự phát triển tột
bậc của tiếng Anh tại Việt Nam. Các trung tâm
đào tạo lần lượt ra đời cùng với nhiều
chương trình, loại hình giảng dạy phong phú phục vụ cho nhiều đối tượng người học
khác nhau. Mở cửa đã góp phần đưa tiếng Anh lên một tầm cao mới, và ngược lại,
tiếng Anh đã giúp hội nhập và giao lưu quốc tế với một tốc độ nhanh chưa từng có,
nhất là qua mạng Internet trên khắp thế giới.
TPHCM
là một trong hai trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội lớn nhất
toàn quốc, lại là một TP có mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa sâu rộng với nhiều
nước trên thế giới, và là nơi có đội ngũ giảng dạy và số HV đông nhất nước, mà năng
lực ngoại ngữ của người sử dụng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất
nước như phản ánh của các phương tiện thông ti
n đại chúng….Theo số liệu của
Phòng Giáo dục thường xuyên, SGD-ĐT TPHCM, hiện có khoảng 380 trường ngoại
ngữ trực thuộc sự QL của SGD - ĐT TPHCM. Số lượng HV thì nhiều, nhưng chất
lượng đào tạo còn nhiều vấn đề phải suy nghĩ; mỗi trường QL hoạt động này theo
một cách riêng, còn nhiều thiếu sót và bất cập. Hậu quả là đại đa số HV sau khi đạt
được chứng c
hỉ ở các cấp độ A, B, C vẫn không đủ năng lực để đáp ứng nhu cầu thị
trường lao động, học tập và công tác chuyên môn. Vì vậy việc đảm bảo hiệu quả đào
tạo, là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các đơn vị trường ngoài công lập trong sự
cạnh tranh gay gắt để tồn tại, và nhất là đối với các trường tư thục ngoại ngữ tại
TPHCM.
Trường tư thục ngoại ngữ Việt Anh được thành lập theo chủ trương XHH và đa
dạng hoá sự nghiệp giáo dục của Nhà nước, trực thuộc sự quản lý của SGD-ĐT
TPHCM, đã được đánh gi
á là một trong những trường tốt, có sự tổ chức dạy và học
nghiêm túc, quan tâm đến việc đổi mới PP giảng dạy, có đội ngũ GV tốt, và thường
xuyên có HV giỏi, đạt kết quả cao trong các kỳ thi CCQG do SGD&ĐT TPHCM tổ
chức hàng tháng. Đặc biệt nhân kỉ niệm 30 năm ngày thống nhất đất nước
(30/4/1975 - 30/4/2005), SGD&ĐT TPHCM kết hợp cùng Viện Chiến lược &
Chương Trình Giáo Dục và Công ty Văn Hóa Thông Ti
n Đông Nam Á để xuất bản
lần đầu tiên tập sách chuyên đề ”Giáo Dục Và Đào Tạo TPHCM - 30 Năm Xây
Dựng Và Phát Triển”, Và trường ngoại ngữ Việt Anh đã vinh dự được Ban biên
soạn viết bài giới thiệu về trường - đơn vị có nhiều thành tích trong việc đào tạo
ngoại ngữ cho HV.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả nghiên cứu đề tài : “Quản lý hoạt động
đào tạo của trường tư thục ngoại ngữ Việt Anh tại TPHCM” nhằm k
hắc phục
những khiếm khuyết trong hoạt động QL, và tìm ra những biện pháp nâng cao hiệu
quả ĐT của nhà trường, để nhanh chóng góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho TP
theo xu hướng hội nhập và phát triển với khu vực và thế giới.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng hoạt động QL đào tạo của trường tư thục ngoại
ngữ Việt Anh, từ đó đề xuất một số biện pháp QL để nâng cao hiệu quả đào tạo ở
trường tư thục ngoại n
gữ Việt Anh tại TPHCM.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
_ Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quản lý đào tạo ở trường tư thục ngoại
ngữ Việt Anh tại TPHCM.
_
Khách thể nghiên cứu: Việc quản lý hoạt động ĐT ở trường tư thục ngoại
ngữ Việt Anh, và hai trường tư thục ngoại ngữ Dương Minh và Nguyễn Du tại
TPHCM.
4.
Nhiệm vụ nghiên cứu
_ Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
_ Thực trạng về hoạt động QLĐT ở trường tư thục NNVA tại TPHCM.
_ Những biện pháp để nâng cao hiệu quả ĐT tại trường tư thục NNVA
5.
Giả thuyết khoa học
Việc QL hoạt động ĐT tại trường tư thục NNVA đã có một số hiệu quả bước
đầu, tuy nhiên vẫn còn một số nhược điểm ở khâu QL ĐT. Vì thế nếu xây dựng và
thực hiện được những biện pháp QL hữu hiệu theo một quy trình, thì sẽ nâng cao
được hiệu quả ĐT của nhà trường nhiều hơn nữa.
6.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu việc QL hoạt động ĐT ở trường tư thục ngoại
ngữ Việt Anh tại TPHCM. Ngoài ra, trong quá trình đánh giá ở một số mặt QL đề tài
có sử dụng số liệu của hai trường bạn có cùng loại hình và chức năng ĐT trên địa bàn
để phân tích; còn các mặt QL mang tính chất riêng thì dữ liệu của hai trường bạn
được xem là phần tham khảo.
7.
Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Sử dụng PP thu thập các tài liệu, đọc
sách, phân tích, tổng hợp những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài
7.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu: Sử dụng các mẫu phiếu tham khảo
nhằm thu thập số liệu, thông tin của HV & GV ở ba trường tư thục dạy ngoại ngữ tại
TPHCM. Số lượng tham gia gồm 04 cán bộ QL, 48 GV và 499 HV .
7.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết những thành tựu nghiên
cứu của các tác giả và hoạt động của các trường dạy ngoại ngữ về
lĩnh vực nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho đề tài
7.4. Phương pháp toán thống kê: Để xử lý số liệu.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm gần đây, trước yêu cầu đổi mới của đất nước, thì vấn đề ĐT
và quản lý ĐT là vấn đề rất quan trọng trong việc tạo nguồn nhân lực có đủ trình độ
để hội nhập khu vực và quốc tế. Vì thế có thể nói cạnh tranh trong thời đại toàn cầu
hóa chính là cạnh tranh về giáo dục. Và yêu cầu bức thiết của thực tế là phải ĐT
nguồn nhâ
n lực có đủ trình độ ngoại ngữ để hội nhập, nên việc triển khai chiến lược
dạy và học ngoại ngữ là khâu quan trọng không thể thiếu được trong chiến lược phát
triển giáo dục để hội nhập. Do vậy đã có nhiều đề tài nghiên cứu về thực trạng việc
dạy và học tiếng Anh, PP dạy và học ngoại ngữ nhanh và
hiệu quả, cũng như các
biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý ĐT tại các trường phổ thông, cao đẳng, đại học,
và các trung tâm ngoại ngữ như:
_ Tìm hiểu thực trạng dạy và học tiếng Anh Tại các trung tâm ngoại ngữ khu
vực TPHCM nhằm đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo,
do Đỗ Huy Thịnh làm chủ nhiệm đề tài, năm
2003.
_ ĐG hiệu quả ĐT tiếng Anh như một ngoại ngữ tại các trường đại học trên địa
bàn TPHCM, do Sở Khoa học & Công nghệ TPHCM, giao cho nhóm nghiên cứu
thuộc trường ĐHKHXH – NV thực hiện 2001 – 2004.
_ Năng lực tiếng Anh của sinh viên các trường đại học trên địa bàn
TPHCM trước yêu cầu của một nền kinh tế tri thức: Thực trạng và những
giải pháp, của Vũ Thị Phương Anh & Nguyễn Bích Hạnh, năm 2004.
_ Đổi mới PP giảng dạy các kỹ năng giao tiếp tiếng Anh: Từ đường hướng lấy
người dạy làm
trung tâm sang đường hướng lấy người học làm trung tâm, của Hoàng
Văn Vân, năm 2001.
_ Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành QLGD của Lê Văn Việt “ Thực trạng công
tác quản lý ĐT tại khoa ngoại ngữ trường Cao đẳng Sư phạm TPHCM và một số
giải pháp”, năm 2002.
_
Phương pháp học ngoại ngữ nhanh và hiệu quả, của nhà sư phạm Phạm Văn
Vĩnh, năm 2003.
_ Đánh giá thực trạng giao tiếp qua việc dạy và học tiếng Anh trong trường phổ
thông. Đề xuất phương án giải quyết bằng việc biên soạn tập tài liệu giảng dạy nhằm
nâng cao hiệu quả kỹ năng nghe nói cho học sinh, của Nguyễn Viết Ngoạn, năm
2003.
_ Dạy và học tiếng Anh trong trường đại học, chủ nhiệm đề tài là Vũ Thị
Phương Anh và nhóm thực hiện (ĐHKHXH-NV thuộc ĐHGQ TPHCM)
năm 2004.
Trên tạp chí nghiên cứu giáo dục, ngày càng xuất hiện nhiều bài viết về các
vấn đề của giáo dục ngoại ngữ, như bài: “ Giáo dục ngoại ngữ trong quá trình toàn
cầu hóa và hội n
hập” của Bùi Hiền đăng tải trên tạp chí giáo dục số 44/ 2002. Hay tại
các cuộc hội thảo khoa học, hội nghị giáo dục, hoặc qua mạng Internet cũng đã đề
cập đến nhiều vấn đề của việc quản lý dạy và học ngoại ngữ, nhiều nhất là dạy và
học tiếng Anh.
Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên vấn đề ĐT ngoại ngữ tại các
trường tư thục ngoại ngữ trực thuộc sự QL của S
GD-ĐT TPHCM còn bỏ ngỏ, chưa
đánh giá hết được mức độ góp phần thúc đẩy nhanh chóng việc nâng cao trình độ dân
trí của người dân TPHCM nói riêng, và của cả nước nói chung nếu như có được
những giải pháp hợp lý và đồng bộ để nâng cao hiệu quả ĐT cho loại hình giáo dục
này. Nhìn chung vấn đề còn ít được quan tâm trong khi TPHCM là chiếc nôi dạy và
học tiếng Anh lớn nhất nước và các trường dạy ngoại ngữ mở ra mỗi ngày một nhiều
theo nhu cầu phát triển của xã hội.

vậy, luận văn này đi sâu nghiên cứu thực trạng việc quản lý hoạt động đào
tạo, để tìm ra một số biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo ở trường
ngoại ngữ Việt Anh tại TPHCM.
1.2. Những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
1.2.1. Quan điểm và sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác GD- ĐT
Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam có nhiều chủ
trương, chính sách phát triển GD-ĐT. Sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định GD-
ĐT thực hiện sự đổi mới, giữ vững định hướng XHCN, thích ứng với động thái của
kinh tế thị trường. Một trong những luận điểm
quan trọng của đại hội lần thứ VII coi
nguồn lực con người là quí báu nhất, có vai trò quyết định đặc biệt đối với nước ta
khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp. Đặc biệt trong thời kỳ đổi
mới, tại Đại hội lần thứ VII, Đảng đã khẳng định phát triển giáo dục và khoa học là
quốc sách hàng đầu. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã có

nghị quyết về tiếp tục đổi mới sự nghiệp GD-ĐT. Đại hội lần thứ VIII nhấn mạnh
phải lấy phát triển GD - ĐT và khoa học - công nghệ làm yếu tố cơ bản, coi là khâu
đột phá. Đảng ta khẳng định: Nguồn lực con người là người lao động có trí tuệ cao,
có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo bồi dưỡng, phát huy bởi
một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại. Giáo

dục phải làm tốt nhiệm vụ ĐT nguồn nhân lực cho đất nước, đội ngũ lao động cho
khoa học công nghệ.
Nghị quyết Hội nghị lần 2 khóa VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng đề
ra: “Nhanh chóng đưa GD-ĐT đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước, thực hiện mục
tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước”.
Tại kỳ họp này, định hướng c
hiến lược phát triển GD – ĐT trong thời kỳ CNH,
HĐH đã được nêu ra với bảy vấn đề cơ bản sau:
- Xác định mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và
thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH
-
Giữ vững mục tiêu XHCN trong nội dung, phương pháp GD - ĐT, trong chính
sách, nhất là chính sách công bằng xã hội, chống khuynh hướng” thương mại hóa”,
đề phòng khuynh hướng phi chính trị hóa GD - ĐT không truyền bá tôn giáo trong
trường học.
- Thực sự coi GD – ĐT là quốc sách hàng đầu, coi đầu tư cho GD là đầu tư phát
triển, thực hiện các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với GD - ĐT.
- Coi GD – ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng và Nhà nước và của toàn dân, kết
hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và gi
áo dục xã hội tạo nên môi trường
giáo dục lành mạnh ở mọi nơi , trong từng cộng đồng, từng tập thể.
- Xác định kế hoạch phát triển GD – ĐT gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã
hội, những tiến bộ khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Coi trọng cả
ba mặt: mở rộng quy m
ô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả, thực hiện giáo
dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn với thực tế, học
đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội.
- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học
hành.
- Giữ vai trò nòng cốt của trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại hình
GD - ĐT trên cơ sở nhà nước thống nhất QL từ nội dung chương trình, quy chế, thi
cử, văn bằng, tiêu chuẩn GV, tạo cơ hội cho mọi người có thể lựa chọn cách học phù
hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mình.
Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định tiếp tục các luận điểm về GD – ĐT đã nêu
ra trong các kỳ đại hội trước, nhấn mạnh sự phát triển GD – ĐT là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, l
à điều kiện tiên quyết để phát
triển nguồn lực con người, làm cho kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, là yếu tố
quan trọng để phát huy dân chủ, bảo vệ quyền con người, tăng cường pháp chế, giữ
vững kỷ cương. Đại hội đã nêu ra những mục tiêu, biện pháp để thực hiện sự đổi mới
về nội dung, PP dạy & học, hệ thống trường lớp, hệ thống QLGD theo hướng chuẩn
hóa, HĐH, XHH, p
hục vụ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”[4, tr.167-169]
Như vậy, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả ĐT được Đảng và Nhà nước ta co
i
là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển GD-ĐT; bởi vấn đề nhân lực
ngày càng trở thành yếu tố quyết định đối với sự phát triển và thịnh vượng của mỗi
quốc gia. Để có được một lực lượng lao động mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng,
vai trò của ngành Giáo dục được đặt lên vị trí quan trọng hàng đầu. Nó đòi hỏi ngành
Giáo dục phải ĐT nên những con người thông m
inh, sáng tạo, nắm vững tri thức
khoa học, am hiểu thực tiễn, có trình độ ngoại ngữ để tiếp cận với sự hội nhập và phát
triển nhanh chóng của xã hội theo xu hướng toàn cầu hóa.
1.2.2. Vai trò của ngoại ngữ trong sự nghiệp GD-ĐT và trong sự phát triển của
đất nước
Toàn cầu hoá là xu thế khách quan, bao hàm hầu hết các lĩnh vực, trong đó có
GD, vừa thúc đẩy hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh phức tạp để tăng sức ép cạnh
tranh. Bởi vậy, yêu cầu đổi mới mạnh mẽ GD Việt Nam
trở nên bức bách hơn bao
giờ hết để có thể hội nhập khu vực và thế giới. Điều kiện tiên quyết của hội nhập là
ngôn ngữ, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách nhằm tăng cường ĐT
ngoại ngữ trong hệ thống GD quốc dân với chủ trương XHH giáo dục, đa dạng hóa

các hình thức ĐT và hiện nay ngoại ngữ được coi là một trong những tiêu chí để
chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức nhà nước. Bên cạnh đó tốc độ tăng của lao động
xã hội ở nước ta tương đối nhanh, nhưng trình độ ngoại ngữ bị hạn chế nên gặp nhiều
khó khăn trong việc tiếp cận với các công nghệ tiên tiến, cũng như việc hợp tác trong
các ngành kinh tế có đầu tư nước ngoài và các công ty liên doanh. Do đó, việc ĐT
ngoại ngữ cho người lao động, cung cấp nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế, phục
vụ đắc lực cho sự nghiệp CNH, HĐH và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc
tế là nhiệm vụ hàng đầu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Vì thế
ngoại ngữ có một vị trí & vai trò rất quan trọng, từ một công cụ giao lưu quốc tế, đã
trở thành chiếc chìa khóa của sự tranh đua, tận dụng tối đa n
hững tiến bộ nhanh
chóng về khoa học & công nghệ, một công cụ quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
Việc dạy và học ngoại ngữ từ nhiều năm
nay đã được Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm. Ngay từ những năm 1968 và 1972 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các
Chỉ thị số 43/Ttg ngày 11/4/1968 và Quyết định số 251/TTg ngày 07/9/1972 về cải
tiến và tăng cường công tác dạy và học ngoại ngữ trong các trường phổ thông, trung
học chuyên nghiệp và đại học cũng như trong đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, kinh
tế và trong công nhân kỹ thuật. Nếu lấy thời điểm
1987 làm mốc cho thời kỳ đổi mới,
thì đây cũng được xem như bắt đầu thời kỳ đổi mới trong chính sách ngoại ngữ của
Việt Nam, trong đó tiếng Anh đóng vai trò then chốt trong việc phát triển GD và kinh
tế xã hội, có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của đất nước. Nhiều văn bản đã được
ban hành cho các hoạt động này: văn bản số 15/ĐTTC, ngày 2/7/1990, số
3155/TCBT, ngày 29/6/199 và 1632/TCBT, ngày 30/3/1992.
Năm 1993, Bộ GD & ĐT, lần đầu tiên đã tiến hành thăm
dò bằng thư
về” Nhu cầu dạy và học ngoại ngữ” trong cả nước. Đây là tiền đề để một nhóm
chuyên gia nghiên cứu và đề xuất “Chiến lược quốc gia về ĐT ngoại ngữ xuyến suốt
các bậc học” (1994). Đặc biệt, trong thời kỳ này, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ
thị 422/TTg ngày 15/8/1994, về việc tăng cường học ngoại n
gữ, đặc biệt là tiếng
Anh, trong cán bộ, viên chức nhà nước. Chỉ thị qui định đối tượng học từ cấp thứ
trưởng trở xuống, thời gian học, ngân sách và việc sử dụng tiếng Anh trong công tác
và giao tiếp. Chưa bao giờ có một văn bản về dạy và học ngoại ngữ được ban hành ở
cấp lãnh đạo cao nhất như vậy. Tiếp sa
u đó là quyết định số 874/TTg ngày
20/11/1996, điều 2 của văn bản này ghi rõ: “Đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ cho cán
bộ, công chức Nhà nước để tăng cường khả năng giao tiếp, nghiên cứu tài liệu nước
ngoài trong lĩnh vực chuyên môn”. Điều này được coi là tiêu chuẩn và điều kiện để
xem xét đề bạt, nâng ngạch, cử đi công tác nước ngoài. Trong lịch sử cận đại của Việt
Nam chưa bao giờ việc học ngoại ngữ lại có nhiều văn bản pháp lệnh như thế. Điều
đó chứng tỏ ngoại ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nguồn
nhân lực và là thực tế khách quan cần thiết trong xu thế phát triển và hội nhập của đất
nước, và không thể không kể đến vai trò của tiếng Anh được xem
như một công cụ
đắc lực để thu thập thông tin, kiến thức, là vũ khí không thể thiếu được trong cạnh
tranh và chiếm lĩnh thị trường.
Vì thế có thể nói trước yêu cầu phát triển của xã hội, việc dạy - học ngoại ngữ
không đơn giản chỉ vì mục đích nâng cao dân trí mà thưc sự nó đã trở thành một
“kênh” tham gia trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài để phát triển
đất nước.
1.2.3. Một số kh
ái niệm liên quan đến đề tài
1.2.3.1. Quản lý
Có nhiều cách định nghĩa khái niệm quản lý khác nhau tùy theo cách tiếp cận
khác nhau:
- Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý
lên khách thể quản lý về mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục… bằng một
hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, nhằm tạo ra m
ôi trường và điều
kiện cho sự phát triển của đối tượng.
- Quản lý là một hệ thống những tác động có chủ định, có định hướng của chủ
thể quản lý nhằm khai thác và vận dụng tối ưu những tiềm năng và cơ hội của tổ chức
để đạt đến mục tiêu quản lý với yêu cầu chất lượng cao trong m
ôi trường luôn biến
động.
- Quản lý là sự tác động có mục đích của cán bộ quản lý đối với tập thể con
người nhằm làm cho hệ thống hoạt động bình thường, giải quyết được nhiệm vụ đề
ra.
Cho dù cách tiếp cận nào thì bản chất của hoạt động quản lý là cách thức tác
động (tổ chức, điều khiển, kiểm tra) hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể
quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn
và đạt mục tiêu đã đề ra [24
]. Quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật
 Quản lý là khoa học vì nó là lĩnh vực tri thức được hệ thống hóa và là đối
tượng nghiên cứu khách quan đặc biệt. Quản lý là khoa học phân loại kiến thức, giải
thích các mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý, dự báo kết quả .
 Quản lý là nghệ thuật bởi lẽ nó là hoạt động đặc biệt, trong đó quan hệ quan
trọng nhất là con người, đòi hỏi phải vận dụng hết sức khéo léo, linh hoạt những ki
nh
nghiệm đã quan sát được, những tri thức đã được đúc kết. Nghệ thuật đó thể hiện ở
thái độ cư xử có văn hoá, khôn ngoan và tế nhị, trong việc vận dụng các nguyên tắc
chung vào từng con người cụ
thể. Nói cho cùng, nghệ thuật quản lý con người cũng là dựa trên các qui
luật tâm lý học .
Quản lý được tồn tại với tư cách là một hệ thống. Hệ thống quản lý và tá
c động
quản lý có thể được biểu diễn theo sơ đồ sau đây:










Mục tiêu
quản lý
Đối tượng quản lý
Chủ thể quản lý
Xác định
Tác
động

quản

Tác
động
phản
Hồi

Thực hiện
 Đặc điểm cơ bản của quản lý
Quản lý trước hết là hoạt động có
mục đích, được xác định cấu trúc của tổ chức
để điều chỉnh các mối quan hệ.
Quản lý có những mối quan hệ của sự lựa chọn thành phần cụ thể tạo nên quá

trình điều khiển như một tổng thể. Nó có những quy định về mối liên hệ trên, dưới,
ngang, dọc, trong, ngoài.
Trong quá trình quản lý việc đưa ra quyết định và thực hiện quyết định được
tiến hành tuần tự theo các bước nhất định.
 Chức năng cơ bản của quản lý
“Chức năng quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các
công việc của các thành viên trong tổ chức và của việc sử dụng tất cả các khả năng,
cách tổ chức để đạt được mục tiêu và tổ chức đã đề ra.” [24
]
Như vậy quản lý có 4 chức năng cơ bản sau:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét