Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

Bài tập lớn học kỳ
II. NỘI DUNG
1. Khái quát về nhân cách
Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của một xã hội nhât
định, là chủ thể của các mối quan hệ con người, của hoạt động có ý thức và giao
tiếp thì chúng ta nói đên nhân cách của họ.
Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu hiện ở bản
sắc và giá trị xã hội của người ấy.
Dựa trên sự nghiên cứu của tâm lý học, nhân cách có các đặc điểm như: tính
ổn định, tính thống nhất, tính tich cực, tính giao tiếp.
2. Vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, liên
hệ thực tiễn
1.1. Yếu tố di truyền
Di truyền là sự tái tạo ở đời sau những thuộc tính sinh học có ở đời trước, là
sự truyền lại từ cha mẹ đến con cái những đặc điểm những phẩm chất nhất định đã
được ghi lại trong hệ thống gen gi truyền.
Quan điểm Mác xít cho rằng: di truyền không phải đóng vai trò quyết định
đối với sự phát triển nhân cách song cũng không phủ nhận vai trò của di truyền.
Nếu phủ nhận vai trò của di truyền thì dễ dẫn đến mê tín dị đoan. Ngược lại, quá
coi trọng yếu tố di truyền lại phủ định yếu tố xã hội. Dưới góc độ nghiên cứu của
tâm lý học, di truyền là tiền đề, là cơ sở vật chất cho sự phát triển, tác động đến độ
mạnh yếu của nhân cách…Chính nó tham gia vào sự tạo thành cơ sở vật chất của
các hiện tượng tâm lý- những đặc điểm giải phẫu và sinh lý cơ thể, trong đó có hệ
thần kinh. Phần lớn không chỉ do di truyền, tư chất nhất định mà còn do trong gia
đình đó trẻ em được giáo dục trong bầu không khí hào hứng say mê đối với một
loại hình hoạt động nhất định và được lôi cuốn tham gia rất sớm vào những hoạt
động đó.
Ví dụ: Một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình mà bố mẹ là ca sỹ, nhạc sỹ thì
nó sẽ có cơ hội và khả năng trở thành một người hoạt động nghệ thuật khi trưởng
1
Bài tập lớn học kỳ
thành, cộng với việc bố mẹ nó phát triển và bồi dưỡng từ nhỏ khả năng tiềm tàng
của bộ máy phân tích âm thanh, phát triển giọng ca
Một vấn đề cũng mang tính thực tiễn ở đây, đó là nhà giáo dục cần quan tâm
đúng mức đến vai trò của yếu tố di truyền để phát hiện sớm các tài năng của học
sinh, từ đó có kế hoạch bồi dưỡng phát triển tài năng của học sinh. Tuy nhiên
không được quá đề cao hoặc quá xem nhẹ vấn đề này vì: Nếu tuyệt đối hoá hoặc
quá đề cao ảnh hưởng của yếu tố di truyền sẽ dẫn đến sai lầm về nhận thức luận,
dẫn đến những chính sách giáo dục phản khoa học hoặc phủ nhận khả năng cải
biến bản chất con người, từ đó hạ thấp vai trò của giáo dục và tự giáo dục. Nếu
quá xem nhẹ, coi thường ảnh hưởng của yếu tố sinh học - yếu tố di truyền thì vô
hình chung chúng ta đã bỏ qua yếu tố tư chất, yếu tố tiền đề thuận lợi của sự phát
triển.
1.2. Yếu tố hoàn cảnh sống:
1.1.1.

hoàn cảnh tự nhiên
Để hình thành nên nhân cách của một con người thì trước tiên vẫn phải trải
qua các yếu tố của hoàn cảnh tự nhiên, nó như là cái nền vốn có quy định ít nhiều
nhân cách của con người. Như chúng ta đã biết, mỗi dân tộc sống trên một lãnh
thổ nhất định, có cái độc đáo của hoàn cảnh địa lý: ruộng đồng và khoáng sản, núi
và sông, trời và biển, mưa và gió, hoa cỏ và âm thanh…những điều ấy quy định
đặc điểm của các dạng, các ngành sản xuất, đặc tính của nghề nghiệp (tức những
phương thức hoạt động của con người trong tự nhiên) và một số nét riêng trong
phạm vi sáng tạo nghệ thuật. Qua đó, quy định các giá trị vật chất và tinh thần ở
một mức độ nhất định. Cho nên có thể nói rằng, tâm lí dân tộc mang dấu ấn của
hoàn cảnh tự nhiên thông qua khâu trung gian là phương thức sống. Xét cho cùng,
nhiều phong tục tập quán đều có nguồn gốc từ điều kiện và hoàn cảnh sống tự
nhiên. Một số nét tâm lí nào đó của bản địa, của nghề nghiệp cũng được hiểu theo
logic ấy.
Ví dụ: người dân vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và đồng bằng châu
thổ sông Cửu Long nước ta có truyền thống trồng lúa nước, cây lúa nước không
2
Bài tập lớn học kỳ
đơn thuần là một cây trồng nông nghiệp mà từ xa xưa nó đã trở thành một biểu
tượng của nền nông nghiệp hai vùng đồng bằng này. Người dân không chỉ có kinh
nghiệm trồng lúa nước, tâm lý gắn bó với cây lúa nước mà còn có những hoạt
động văn hóa, nghệ thuật liên quan đến cây lúa nước. Sở dĩ có điều này là bởi nơi
đây có điều kiện tự nhiên thích hợp cho việc canh tác lúa nước(có 2 con sông lớn
chảy qua, địa hình bằng phẳng, đất đai phù sa màu mỡ…)
1.1.2. hoàn cảnh xã hội
Theo quan điểm Mác – Lênin: Nhân cách chỉ có thể được hình thành và phát
triển trong môi trường nhất định, đặc biệt là môi trường xã hội, chỉ sống trong xã
hội loài người thì con người mới có được những tư chất và thuộc tính người đó
cũng chỉ phát triển được trong xã hội con người, nếu không sống trong xã hội loài
người thì sẽ không có những thuộc tính người. Ví dụ: trường hợp những em bé
được chó sói nuôi: đi bằng bốn chân, không biết nói chỉ biết rú như sói, không biết
ăn thịt chín, không mặc quần áo…Dưới góc độ tâm lý học, môi trường xã hội góp
phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và điều kiện cho các hoạt động giao
lưu của con người. Nhờ hoạt động đó mỗi con người dần lĩnh hội được kinh
nghiệm xã hội loài người để từng bước hình thành và hoàn thiện nhân cách. Nhân
cách phản ánh chủ yếu những đặc điểm lịch sử, điều kiện sinh hoạt, nguồn gốc giai
cấp, vị trí xã hội cá nhân, vì vậy khi điều kiện xã hội đã biến đổi cơ bản thì bộ mặt
tinh thần của con người cũng biến đổi theo. Do đó nhân cách là một sản phẩm của
xã hội, có nghĩa là đứa trẻ muốn trở thành nhân cách phải có sự tiếp xúc với người
lớn để nắm vững tri thức, kinh nghiệm lịch sử xã hội, để được chuẩn bị bước vào
cuộc sống và lao động trong văn hóa của thời đại. Quan hệ sản xuất quy định nội
dung của nhiều nét tâm lý cơ bản của nhân cách. Ví dụ: Việt Nam có quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa thì người dân cũng sẽ có những nét tâm lý cơ bản của nhân
cách như: hình thành tư tưởng phấn đấu cùng nhau xây dựng đất nước, đưa đất
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa… Tâm lý nhân cách phụ thuộc vào quan hệ chính trị và pháp luật. Vị trí
giai cấp của cá nhân sẽ kích thích tính tích cực của nó ở mức độ này mức độ khác
3
Bài tập lớn học kỳ
trong vai trò xã hội. Nhu cầu, hứng thú, lí tưởng phụ thuộc không ít vào vai trò ấy.
Ví dụ:: người có địa vị xã hội cao như các chính trị gia, các nhà nghiên cứu, lãnh
đạo… thì sẽ có tâm lý nhân cách, hay nói cách khác là sẽ có nhu cầu, lí tưởng, sự
hứng thú cá nhân…khác với những người bình thường như nông dân, công nhân,
học sinh, sinh viên…
Việc xem xét các ảnh hưởng của yếu tố xã hội tới nhân cách còn thể hiện
trong các đặc tính xã hội mà nhân cách tiếp thu được khi nó là thành viên của một
nhóm xã hội, trong những mối quan hệ xã hội nhất định:
Các thành viên của nhóm xã hội, thường mang một số đặc tính riêng trong
hành vi và cách ứng xử…đặc trưng cho nhóm của mình, mà nhiều khi chính họ
không ý thức được điều đó. Trong đời thường, cũng như trong ngôn ngữ khoa học,
chúng ta thường gặp những nhận xét như: người Nhật rất cần cù, yêu lao động;
người Đức ưa chính xác và tiết kiệm,v.v Đó là tính cách xã hội, hay tính cách dân
tộc, thường được xem là tính cách của đại đa số các thành viên xã hội, hay dân tộc
đó. Nhân cách hình thành trong một nhóm, trong một xã hội hay trong một dân
tộc, nhất định sẽ có những hành vi và những đặc tính rập khuôn theo một số chuẩn
mực của nhóm, của xã hội hay dân tộc đó. Mặt khác trong quá trình phát triển của
nhân cách ở môi trường xã hội luôn thay đổi, nhân cách buộc phải đối diện với
những thay đổi và điều đó sẽ thúc đẩy quá trình hình thành những chuẩn mực giá
trị mới, những tâm thế mới, những phương thức hành vi mới, v.v
Ví dụ: Trẻ con qua dậy thì sang tuổi thanh niên, từ thanh niên trở thành người
đứng tuổi và từ người đứng tuổi bước sang tuổi già. Điều đó buộc từng cá nhân
phải có những hành vi, ứng xử hòa đồng với những ước lệ cũng như hệ thống giá
trị mới đặt ra khi bước sang một nhóm lứa tuổi khác, đó là sự thay đổi về lứa tuổi.
Hoặc là sự thay đổi vị trí và cương vị xã hội cũng thể hiện quá trình phát triển
nhân cách trong nhóm; ví dụ: một người từ cương vị là chủ tịch xã lên làm chủ tịch
huyện thì nhân cách buộc phải làm quen với các quyền hành, nghĩa vụ và quyền
lợi mới. Một sự thay đổi nữa, có ý nghĩa quan trọng đối với nhân cách là việc cá
nhân rời bỏ nhóm xã hội cũ và tham gia vào nhóm xã hội mới, ví dụ: thay đổi cơ
4
Bài tập lớn học kỳ
quan làm việc, thay đổi nhóm, tầng lớp xã hội v.v…Việc từ bỏ những tính cách
đặc trưng của nhóm cũ và thích nghi với những định hướng giá trị mới, những
cách sống, nếp nghĩ mới cũng thường là thử thách đối với sự phát triển nhân cách
Tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường với sự hình thành và phát
triển nhân cách còn phụ thuộc vào lập trường, quan điểm, thái độ của con người đó
(ví dụ: học sinh, sinh viên có tiếp thu những hiện tượng, những sự kiện xảy ra
ngoài xã hội để lấy đó làm bài học cho bản thân mình hay phản đối và không chấp
nhận chúng) và phụ thuộc vào xu hướng, năng lực và mức độ cá nhân tham gia
biến đổi môi trường ( tích cực, tiêu cực, mạnh hay yếu…). Do đó nhân cách
không chỉ là một khách thể mà còn là một chủ thể, cá nhân là một tồn tại có ý
thức, nó có thể lựa chọn phương thức sống của mình và do đó nó lựa chọn những
phản ứng khác nhau trước tác động của hoàn cảnh xã hội.
Giữa nhân cách và môi trường có quan hệ hữu cơ: tính chất và mức độ tác
động của hoàn cảnh được phản ánh vào nhân cách. Sự tham gia của nhân cách tác
động đến hoàn cảnh để cải tạo hoàn cảnh, nhằm phục vụ lợi ích con người. Vì vậy,
ta có thể thấy một vấn đề mang tính thực tiễn ở đây đó là vai trò của người làm
công tác giáo dục đối vời người học. Người làm công tác giáo dục phải biết cách
phát huy, khai thác triệt để yếu tố tích cực của môi trường và phòng ngừa hạn chế
những ảnh hưởng của môi trường. Phải hướng người học vào định hướng những
giá trị đúng đắn, xây dựng cho người học bản lĩnh vững vàng để chiếm lĩnh ảnh
hưởng xung quanh, tạo điều kiện để người học tham gia tích cực vào việc xây
dựng và cải tạo môi trường.
1.5. yếu tố giáo dục
Lịch sử đã chứng minh vai trò to lớn của giáo dục trên mọi mặt của đời
sống xã hội, còn trong sự hình thành và phát triển nhân cách, giáo dục được đánh
giá là giữ vai trò chủ đạo. Giáo dục ở đây có nghĩa rộng, bao gồm cả việc dạy học
cùng với hệ thống tác động sư phạm khác, trực tiếp hoặc gián tiếp trong lớp và
ngoài lớp, trong trường và ngoài nhà trường, trong gia đình và ngoài xã hội. Giáo
dục không những định hướng mà còn tổ chức và dìu dắt sự hình thành và phát
5
Bài tập lớn học kỳ
triển nhân cách. Điều này được thể hiện ngay ở mục tiêu đào tạo của bất cứ xã hội
nào. Giáo dục mang lại những tri thức tiến bộ xã hội mà các yếu tố khác như bẩm
sinh, di truyền, môi trường, hoàn cảnh không thể có được. Ví dụ, một người không
học thì không bao giờ biết đọc, biết viết. Giáo dục còn góp phần uốn nắn những
thói hư tật xấu của cá nhân, hướng nhân cách phát triển theo mong muốn của xã
hội ; ví dụ, một người phạm pháp nếu được cải tạo, giáo dục thì sẽ trở thành một
người có ích cho xã hội; một đứa trẻ muốn nó lớn lên là một công dân tốt thì việc
giáo dục, dạy bảo nó từ nhỏ cực kì quan trọng. Giáo dục thực chất là một môi
trường hoạt động – giao tiếp được tinh lọc theo hướng tiến bộ xã hội, nó không chỉ
thích ứng mà còn đi trước hiện thực. Điều đó có giá trị định hướng cho việc xây
dựng mô hình nhân cách của xã hội; ví dụ, mục tiêu giáo dục của chúng ta là xây
dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, con người đó nhằm hướng tới phục vụ cho
công cuộc xây dựng, đổi mới, phát triển đất nước thế kỷ XXI Bác Hồ viết: “Hiền
dữ đâu phải là tính sẵn – Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Những công trình
nghiên cứu về tâm lý học và giáo dục học hiện đại đã chứng minh rằng, sự phát
triển tâm lý của trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện
của sự dạy học và giáo dục. Hoặc chúng ta cũng có thể thấy trên thực tế một điều,
đó là nếu một con người sinh ra và lớn lên không nhận được bất kì một sự giáo
dục nào, không được uốn nắn từ nhỏ thì nhân cách của một con người không thể
hoàn thiện, nhận thức mọi thứ nông cạn, tư duy kém phát triển, khiếm khuyết đi
nhiều khả năng so với người nhận được sự giáo dục đầy đủ từ gia đình, nhà
trường, và xã hội; con người đó cũng dễ vi phạm pháp luật, đó cũng là lí do tại sao
Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao vai trò của việc giáo dục nhân cách đi đôi với
giáo dục pháp luật. Vì vai trò chủ đạo của giáo dục trong hình thành và phát triển
nhân cách mà một vấn đề thực tiễn đặt ra đối vơi trường Đại học luật Hà Nội đó là
phải không ngừng nghiên cứu để đổi mới phương pháp giáo dục, nâng cao chất
lượng giáo dục, quan tâm tới chât lượng mỗi sinh viên khi ra trường…
Trong công cuộc đổi mới, để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta cũng đã khẳng định: con người vừa là
6
Bài tập lớn học kỳ
động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng, việc xây dựng con người Việt Nam,
nhân cách Việt Nam để đáp ứng cho công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ đất
nước mà nhiệm vụ của giáo dục vươn tới.
1.3. Yếu tố hoạt động
Hoạt động là nhân tố quyết định trực tiếp sự phát triển nhân cách. Cá nhân
vừa là thành viên, vừa là chủ thể của xã hội, đồng thời lại là đối tượng của các
quan hệ xã hội. Chính vì thế hoạt động của cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
hoạt động chính là cơ sở, là nhân tố quyết định trực tiếp sự phát triển của nhân
cách. Luận điểm này được xuất phát từ chỗ coi “bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội”, mà các quan hệ đó lại được thể hiện, được duy trì bởi hàng
loạt các hoạt động đa dạng, phong phú của con người. Liên quan chặt chẽ và dữ
vai trò động lực bên trong của hoạt động chính là nhu cầu, nhu cầu luôn thúc đẩy
con người hoạt động, mà hoạt động lại là điều kiện để nảy sinh nhu cầu, đó chính
là quan hệ hai chiều khăng khít, thúc đẩy lẫn nhau. Mặt khác nhu cầu còn là điều
kiện làm nảy sinh và phát triển hàng loạt các yếu tố tâm lý khác, mà chính các yếu
tố tâm lý đó đã góp phần hình thành nên “bản chất con người”, tức là nhân cách.
Như vậy, con người với tư cách là một sinh thể ở bậc thang cao nhất của sự
tiến hóa vật chất, lại là một thực thể xã hội, là chủ thể lao động, nhận thức và giao
lưu được hình thành trong quá trình hoạt động. Hoạt động làm cho con người nhận
thức được hiện thực, kích thích hứng thú, kích thích say mê và sáng tạo và làm nảy
sinh những nhu cầu mới, thuộc tính tâm lý mới. Nhờ đó nhân cách được hình
thành và phát triển.
Ví dụ: Trong hoạt động học tập, mỗi học sinh, sinh viên chỉ tiếp nhận kiến
thức một cách thụ động từ sách vở, từ thầy cô; bản thân không tự thân vận động,
chủ động tìm kiếm tri thức, mày mò, học hỏi từ nhiều phía thì có nghĩa rằng con
đường tác động có mục đích là giáo dục sẽ không hiệu quả, bản thân chúng ta
cũng sẽ không năng động, việc áp dụng kiến thức và phát huy vai trò của yếu tố
giáo dục cho quá trình hình thành và hoàn thiện nhân cách sẽ chậm chạp đi rất
nhiều. Thực tế cho thấy những ai học tập có yếu tố tích cực, sáng tạo, có độc lập
7
Bài tập lớn học kỳ
nghiên cứu…thì tích lũy, lĩnh hội được nhiều kinh nghiệm để phát triển tâm lý,
hoàn thiện dần nhân cách. Đối với sinh viên thì hoạt động học tập là chủ đạo và
cũng đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành nhân cách, nhưng để phát triển và
hoàn thiện dần nhân cách thì bản thân phải tham gia vào các hoạt động khác ngoài
xã hội như: tình nguyện, thể dục thể thao, làm thêm, tham gia sinh hoạt ở các câu
lạc bộ…Đặc biệt, đối với sinh viên Đại học luật thì yếu tố hoạt động đóng vai trò
cực kỳ quan trọng trong việc trau dồi kĩ năng nghề nghiệp, tích lũy kinh nghiệm,
tính năng động, độc lập làm việc…ngay từ lúc còn trên ghế nhà trường.
1.4. Yếu tố giao tiếp
Giao tiếp là tiếp xúc tâm lý giữa người với người, là loại quan hệ trực diện
người-người. Chính trong giao tiếp, sự tiếp xúc tâm lí sẽ cụ thể hóa các quan hệ xã
hội, tức là chuyển các quan hệ gián tiếp xã hội (thể chế, pháp luật…) thành các
quan hệ trực tiếp (giao tiếp).
Nhờ giao tiếp, con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền
văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội, đồng thời thông qua giao tiếp, con người đóng
góp năng lực của mình vào kho tàng chung của nhân loại.
Qua tiếp xúc, con người nhận thức được về người khác từ hình dáng, điệu bộ,
nét mặt (bề ngoài) cho đến động cơ, tâm trạng, cảm xúc, tính cách, năng lực, trình
độ và các giá trị của họ. Đồng thời qua tiếp xúc, cá nhân sẽ biết được nhận xét,
đánh giá cuả đối tượng về mình, hiểu biết thêm về mình mà từ đó họ có những
rung cảm, tâm trạng khác nhau, vui hay buồn, khen hay chê với cả đối tượng và
với bản thân mình. Và giao tiếp tất yếu làm cho mỗi người đều phải suy ngẫm về
đối tượng, kiểm nghiệm lại bản thân mình, cuối cùng sẽ dẫn đến sự điều chỉnh thái
độ, hành vi, cách ứng xử của bản thân. Rõ ràng giao tiếp là phương tiện biểu hiện
sự tác động lẫn nhau giữa người với người (chủ thể và đối tượng) rất mạnh mẽ, tạo
nên những biến đổi về hình thức, thái độ, tình cảm và các biểu hiện của xu hướng
nhân cách. Như vậy, giao tiếp đóng vai trò cơ bản trong qua trình hình thành và
phát triển nhân cách.
8
Bài tập lớn học kỳ
Ví dụ: Sinh viên trong quá trình học tập, nghiên cứu; nhờ giao tiếp, tiếp xúc,
trao đổi với bạn bè mà học hỏi được thêm nhiều kiến thức, cũng qua đó mà mỗi
sinh viên có được những đánh giá, thái độ với những người bạn mình tiếp xúc
(cảm thấy khâm phục và học tập ở họ hoặc là ngược lại…) đồng thời cũng hình
thành sự đánh giá, xem xét lại bản thân, còn những gì cần khắc phục ở bản thân,
những gì cần hoàn thiện Giao tiếp với thầy cô giáo, các anh chị khóa trước giúp
ta học tập thêm nhiều thứ như: kiến thức chuyên môn, thái độ làm việc, kinh
nghiệm trong nghiên cứu, học tập…từ đó vận dụng để phục vụ cho việc học tập
của bản thân.
3. Liên hệ bản thân
Đối với bản thân của mỗi con người, các yếu tố phân tích ở trên đây đều có
một mức độ ý nghĩa nhất định đối với quá trình hình thành, phát triển nhân cách
của mình. Với bản thân em, qua cả một quá trình lớn lên, học tập, rèn luyện…thì
nhân cách cũng hình thành và phát triển. Những yếu tố trên đây đóng vai trò
không thể thiếu đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của bản thân.
Quá trình đó không được chi phối, tác động của riêng một yếu tố nào, các yếu tố
có sự phối hợp để tác động lên quá trình hình thành nhân cách của bản thân. Tuy
nhiên vai trò nổi bât, quan trọng hơn thì phải nói đến các yếu tố: hoàn cảnh xã hội,
hoạt động, giao tiếp và giáo dục. Mặc dù bản thân không phủ nhận vai trò đáng kể
của yếu tố di truyền (về mặt tham gia vào sự tạo thành cơ sở vật chất của các hiện
tượng tâm lý) và yếu tố hoàn cảnh tự nhiên; yếu tố hoàn cảnh tự nhiên vẫn thấp
thoáng xuất hiện trong suy nghĩ, hoạt động học tập, cuộc sống hằng ngày của bản
thân (do là người miền Trung – Nghệ An – vùng đất khô khan, nắng gió, nghèo
khó…nên em tự thấy ít nhiều bản thân cũng có một số nét tâm lý chung của con
người nơi đây như: tiết kiệm, chịu khó, chịu khổ, tham vọng trong con đường học
vấn…). Các yếu tố hoàn cảnh xã hội, hoạt động, giao tiếp và giáo dục gắn liền với
quá trình lớn lên của bản thân, tham gia vào các mối quan hệ xã hội, sống trong
thế giới loài người, sống trong môi trường giáo dục của gia đình, trường hoc, giao
tiếp với mọi người xung quanh…nên đây là các yếu tố tác động rất sớm đối với
9
Bài tập lớn học kỳ
quá trình hình thành và phát triển nhân cách của bản thân. Đặc biệt, trong cuộc
sống, hoạt động học tập hiện tại – là một sinh viên Đại học luật thì các yếu tố hoạt
động, giao tiếp, giáo dục đang là những yếu tố tác động trực tiếp tới sự phát triển
và hoàn thiện dần nhân cách của bản thân. Biểu hiện đó là, trong yếu tố hoạt động
thì ngoàì việc học qua sách vở và nghe thầy cô giảng, bản thân còn phải tự tìm đọc
tài liệu tham khảo, tham các hoạt động bên ngoài như sinh hoạt các câu lạc bộ, tìm
kiếm tri thức qua mạng…; trong yếu tố giao tiếp thì bản thân phải tiếp xúc, trao
đổi với bạn bè thường xuyên, xin tư vấn thầy cô giáo…để tích lũy kinh nghiệm
cho bản thân…; trong yếu tố giáo dục thì phương pháp giáo dục của nhà trường,
phương pháp giảng dạy của thầy cô giáo…cũng đang tác động không nhỏ đối với
quá trình tiếp nhận kiến thức, lượng kiến thức chuyên môn,…có được của bản
thân.
III. KẾT LUẬN
Con người xét về mặt tự nhiên, là một sinh thể ở bậc thang cao nhất của sự
tiến hoá; xét về mặt xã hội, là chủ thể của lao động, nhận thức và giao lưu thể hiện
trong suốt quá trình phát triển và hoàn thiện bản thân. Trong quá trình đó, người
cũng được hình thành và hoàn thiện dần, dưới vai trò tác động của nhân cách của
các yếu tố di truyền, hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh xã hội, quá trình hoạt động,
giao tiếp, yếu tố giáo dục. Dưới góc độ tâm lý học, các yếu tố này luôn là những
yếu tố đóng vai trò quan trọng đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách
của mỗi cá nhân; giữa chúng có mối liên hệ với nhau để tác động lên quá trình
hình thành và phát triển nhân cách của một con người. Vì vậy, mỗi cá nhân phải
nhận thức được một cách đúng mức vai trò của các yếu tố đó, biết kết hợp hài hòa
giữa các yếu tố để tác động đối với quá trình phát triển nhân cách; xây dựng các kế
hoạch cho bản thân, tự thân vận động, không ngừng học tập, rèn luyện, không
ngừng tham gia vào các hoạt động xã hội, giao tiếp cộng đồng…để hoàn thiện dần
nhân cách của mình.
10

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét