Báo cáo quản lý doanh nghiệp
doanh nghiệp thương mại Trương vĩnh Sơn đã tìm mọi biện pháp vươn lên từng
bước củng cố vị trí của mình trên thị trường.
Doanh nghiệp trên cơ chế thị trường có sẵn kèm theo khuyến mại (nếu
khách hàng mua hàng với khối lượng lớn hoặc thưởng cho các đại lý bán buôn,
bán lẻ tiêu thụ hàng nhanh ) trên cơ sớ bù đắp được chi phí và lợi nhuận với
phương thức thanh toán bằng tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, trả chậm phục vụ
cho mọi đối tượng có nhu cầu với điều kiện đối tượng đó phải có khả năng thanh
toán cho doanh nghiệp.
2.4) Đặc điểm tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp
Tính chất kinh doanh thương mại có nhiều mô hình khác nhau như: công ty
bán buôn, bán lẻ, công ty kinh doanh tổng hợp, công ty môi giới kinh doanh
Doanh nghiệp thương mại Trương Vĩnh Sơn thuộc mô hình kinh doanh
tổng hợp hiện là nhà phân phối độc quyền cho các sản phẩmnhư bánh kẹo bibica
của công ty cổ phần bánh kẹo Biên Hoà tại Hà Nội và văn phòng phẩm Thiên
Long của công ty cổ phần sản xuất thương mại Thiên Long. Bên cạnh đó doanh
nghiệp còn đảm nhận thêm việc phân phối cho bánh kẹo cao cấp PERFETTI.
Hàng ngày các nhân viên thị trường được phân đi theo từng tuyến trên địa bàn
tỉnh và các tỉnh khác theo các tuyến đã được phân chia để đi chào hàng và ký
hợp đồng với khách hàng, từ đó khách hàng đưa đơn đặt hàng và giao dịch với
đại diện mại vụ của doanh nghiệp, theo yêu cầu của khách hàng nhân viên quản
lý sự giám thị trường đến trả hàng dưới sát hàng cho khách và của quản lý kho
và đại diện mại vụ của doanh nghiệp
3) Tổ chức bộ máy quản lý của doanh nghiệp
Tồn tại và phát triển trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần dưới sự
quản lý của giám đốc Trương Vĩnh Sơn doanh nghiệp đã từng bước tổ chức lại
5
Báo cáo quản lý doanh nghiệp
bộ máy quản lý cũng như sắp xếp lại lao động cho phù hợp với yêu cầu hiện tại,
đổi mới các mặt hàng kinh doanh để đảm bảo sản xuất kinh doanh mang lại hiệu
quả cao.
Trong doanh nghiệp mọi hoạt động sản xuất kinh doanh được đặt dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của ban giám đốc, giúp việc cho giám đốc là ba phòng ban,
mỗi phòng ban có chức năng nhiệm vụ riêng nhưng đều liên quan chặt chẽ đến
nhau về mọi mặt của công tác kinh doanh và quản lý của mặt hàng. Trong đó
phòng kế toán gồm 2 người, quản lý kho gồm 3 người và phòng nhân viên thị
trường 20 người. Cơ cấu bộ bộ máy tổ chức của doanh nghiệp dươc thể hiện như
sau:
Sơ đồ 1: cơ cấu bộ máy tổ chức của doanh nghiệp
6
Các đại lý bán buôn, lẻ,
cửa hàng, siêu thị
trong địa bàn tỉnh
Giám đốc
P. kế toán P. NV thị
trưòng
P. quản lý kho
Báo cáo quản lý doanh nghiệp
Giám đốc doanh nghiệp là người chịu trách nhiệm trước nhà nước tức là
phải có trách nhiệm phát triển và bảo toàn vốn, là người đứng đầu doanh nghiệp
và lãnh đạo doanh nghiệp và các phòng ban.
Phòng kế toán: giám sát mọi hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời
điểm kinh doanh, quản lý vốn của toàn doanh nghiệp, chịu trách nhiệm tổng hợp
các báo cáo quyết toán của đại lý, cửa hàng, siêu thị thuộc doanh nghiệp, thực
hiện các nghiệp vụ kế toán, thiết lập các sổ sách, chứng từ theo đúng yêu cầu của
Bộ tài chính ban hành, thường xuyên thông tin kinh tế giúp ban giám đốc quyết
định mọi hoạt động kinh tế trong doanh nghiệp về mặt tài chính.
Phòng quản lý kho: giám sát mọi hoạt động mua bán của doanh nghiệp,
ghi chép đầy đủ số liệu hàng hoá nhập xuất kho, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
ghi chép sổ sách, chứng từ của phòng kế toán.
Phòng nhân viên thị trường: có nhiệm vụ đề ra kế hoạch sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và thực hiện các kế hoạch đó, chỉ đạo hướng dẫn các
đơn vị ( các đại lý, siêu thị ) thực hiện đúng kế hoạch đã đề ra, tiếp cận tìm hiểu
nhu cầu tiêu dùng trên thị trường để có kế hoạch ký kết các hợp đồng mua bán
hàng hoá với các cơ sở sản xuất và các thành phần kinh tế khác, tạo nguồn hàng
cung ứng cho các đơn vụ trong công ty, đồng thời trực tiếp tham gia kinh doanh,
tăng thu nhập, ổn định cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên trong toàn
doanh nghiệp.
4) Đặc điểm lao động của doanh nghiệp
Với tổng số công nhân viên của doanh nghiệp là 26 người trong đó trình
độ đại học là ba người bao gồm: quản lý 1 người, kế toán 2 người.
Trình độ trung cấp chuyên nghiệp là 20 người.
Trình độ PTTH là số còn lại.
7
Báo cáo quản lý doanh nghiệp
5) Tình hình vốn và nguồn vốn của doanh nghiệp
Doanh nghiệp từ khi thành lập đến nay trải qua bao nhiêu thử thách, khó
khăn. Với số vốn ban đầu ít ỏi trong suốt những năm hoạt động bằng sự năng
động nhiệt tình của ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp
mà hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đã đạt được những bước phát triển
lớn.
Về mặt cơ sở vật chất kỹ thuật hang năn doanh nghiệp đã không ngừng
đổi mới, cải tạo lại các văn phòng, đầu tư các tranh thiết bị máy móc phục vụ
cho việc kinh doanh của doanh nghiệp. để đầu tư thêm cho quá trình hoạt động
kinh doanh ngaòi số vốn tự có của mình, doanh nghiệp còn đi vay thêm của ngân
hàng để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình.
Với số vốn ban đầu của doanh nghiệp là: 250 000 000 đ
Trong đó: Vốn cố định là: 150 000 000 đ
Vốn lưu động là: 100 000 000 đ
qua hai năm hoạt động kinh doanh đến nay ( 1/6/2005 ) tổng số vốn của doanh
nghiệp đã tăng lên là: 400 000 000 đ
Trong đó: Vốn cố định là: 250 000 000 đ
Vốn lưu động là: 150 000 000 đ
Nhìn vào vốn kinh doanh của doanh nghiệp ta thấy tổng số vốn tăng so
với ban đầu là: 150 000 000 đ trong đó:
Vốn cố định tăng là: 100 000 000 đ
Vốn lưu động tăng là: 50 000 000 đ
Điều này chứng tỏ doanh nghiệp đã phát huy rất tốt nguồn vốn của mình
trong việc kinh doanh song cũng còn nhiều mục tiêu để cho doanh nghiệp phấn
8
Báo cáo quản lý doanh nghiệp
đấu trong những năm tiếp theo. Vì vậy còn có rất nhiều khó khăn cho doanh
nghiệp trên bước đường phát triển và tồn tại.
9
Báo cáo quản lý doanh nghiệp
Phần II: Thực trạng công tác quản lý tiêu thụ sản phẩm tại
DNTM Trương Vĩnh Sơn
Thị trường là nơi thể hiện tập trung nhất các mặt hàng đối lập của sản xuất
hàng hoá, là mục tiêu khởi điểm và cũng là nơi kết thúc của quá trình kinh
doanh. Thông qua thị trường doanh nghiệp nhận biết được nhu cầu xã hội, tự
đánh giá được hoạt động sản xuất kinh doanh của bản thân doanh nghiệp. Phải
chăng, nền kinh tế của thế giới cũng như của nước ta, đã cho ra đời doanh
nghiệp thương mại để đáp ứng được đòi hỏi đó của thị trường với chức năng cơ
bản là lưu chuyển hàng hoá giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp thương mại gồm ba khâu: mua vào - dự trữ - bán
ra, ta có thể thấy hàng hoá là khâu cuối cùng của quá trình lưu chuyển hàng
hoávà chu kỳ tuần hoàn như thế nào để phục vụ khách hàng tốt nhất.
1) Các kênh tiêu thụ của doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh mạng lưới kênh tiêu thụ giống như
đường dây nối liền giữa doanh nghiệp với các cá nhân độc lập hoặc phụ thuộc
lẫn nhau tham gia vào qúa trình tiêu thụ hàng hoá từ nơi sản xuất đến người tiêu
dùng. việc tiêu thụ các mặt hàng của doanh nghiệp được thực hiện bằng nhiều
phương thức khác nhau, do đặc điểm của thị trường cũng như đặc điểm của các
mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp và để đảm bảo khối lượng hàng hoá tiêu
thụ đều đặn không ngừng tăng lên, doanh nghiệp đã tiến hành xây dựng các loại
kênh tiêu thụ sau:
10
Báo cáo quản lý doanh nghiệp
Sơ đồ 2: Các kênh tiêu thụ chính của doanh nghiệp
Kênh tiêu thụ trực tiếp ( C
0
): sản phẩm của doanh nghiệp được bán trực
tiếp tới người tiêu dùng cuối cùng không qua khâu trung gian. ưu điểm là đẩy
nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, phải đảm bảo sự tiếp cận chặt chẽ tới người
tiêu dùng. Nhược điểm của loại kênh tiêu thụ này là chi phí Marketing cao, hạn
chế lượng hàng tiêu thụ chỉ phù hợp với sản xuất nhỏ.
Kênh tiêu thụ gián tiếp: sản phẩm của doanh nghiệp được bán cho người
tiêu dùng cuối cùng phải qua khâu trung gian. Kênh tiêu thụ gián tiếp gồm có:
Kênh cấp 1 ( C
1
): là kênh có khâu trung gian tham gia nhờ kênh này ma
doanh nghiệp được giải phóng khỏi nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, tập trung vào
sản xuất kinh doanh. Song hàng hoá lưu thông trong kênh này với số lượng
không cao, mức chuyên môn hoá chưa cao, mức dự trữ không hợp lý.
Kênh cấp 2 ( C
2
): là kênh có hai thành phần tham gia, kênh này có quy
mô sản xuất hàng hoá lớn, tập trung, thị trường phong phú ,quay vòng vốn
nhanh. Bởi vậy hiệu quả kinh tế trong tiêu thụ mang lại cao, khả năng thoả mãn
trong thị trường lớn.
11
doanh
nghiệp
người
bán lẻ
người
bán
buôn
đại
lý
người
tiêu
dùng
C
0
C
1
C
2
C
3
Báo cáo quản lý doanh nghiệp
Kênh tiêu thụ cấp 3 ( C
3
): gồm ba khâu trung gian sản phẩm hàng hoá của
doanh nghiệp được phân phối qua các đại lý, các đại lý lại cung cấp cho người
bán buôn, người bán buôn lại cung cấp cho người bán lẻ để bán cho người tiêu
dùng cuối cùng. Thông qua hình thức tiêu thụ này doanh nghiệp có thể đáp ứng
được nhu cầu về hàng hoá ngày càng cao của nhân dân trong và ngoài tỉnh và
sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp có thể đáp ứng được khắp nơi trên thị
trường. nhờ kênh tiêu thụ này mà doanh nghiệp có thể lập kế hoạch tiêu thụ
chính xác hơn, thiết lập các mối quan hệ với khách hàng, tìm hiểu nhu cầu của
khách hàng để từ đó hoàn thiện sản phẩm của mình, đảm bảo hiệu quả cao trong
quá trình lưu thông hàng hoá
2) Các phương pháp tiêu thụ của doanh nghiệp thương mại Trương Vĩnh Sơn
2.1) Vai trò của tiêu thụ hàng hoá trong quá trình sản xuất kinh doanh
Sơ đồ 3: quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá
Từ sơ đồ 3 ta thấy, kết quả tiêu thụ có vai trò quyết định đến sự vận động
nhịp nhàng của các giai đoạn trước. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để sản
xuất thì phải tiêu thụ, nên việc tiêu thụ ngừng thì rõ ràng không thể có hoạt động
tiêu thụ tiếp nữa. Bởi vậy tiêu thụ là quá trình bán cái gì, những mặt gì mà thị
12
Sản xuất (Hàng)’ (Tiền)’
Tiêu thụ
Tiền Hàng
Báo cáo quản lý doanh nghiệp
trường cần nó, cho nên đảm bảo được công tác tiêu thụ thì doanh nghiệp mới đạt
được mục tiêu cuối cùng là chuyển vốn vật chất thành vốn tiền tệ, thu dược lợi
nhuận cao nhất, từ đó có cơ sở tích luỹ và tái sản xuất mở rộng.
2.2) Các hình thức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
Do sự đa dạng của nền kinh tế thị trường hiện nay, để đáp ứng từng loại
khách hàng với những hình thức mua bán khác nhau doanh nghiệp đã áp dụng
ba loại hình thức bán hàng đó là bán buôn, bán lẻ và bán hàng theo phương thức
gửi đại lý.
2.2.1) Bán buôn
Là phương pháp bán hàng cho các đơn vị thương mại và các doanh nghiệp
sản xuất, hàng thường được bán theo lô với số lượng lớn giá bán biến động tuỳ
thuộc vào khối lượng hàng bán và phương thức thanh toán, có hai loại bán buôn
là :
Bán buôn qua kho trực tiếp: bên mua cử đại diện đến kho của doanh
nghiệp để mua hàng, doanh nghiệp xuất kho hàng hoá trực tiếp giao cho đại diện
bên mua, sau khi bên mua đã nhận đủ hàng hoá thì thanh toán bằng tiền mặt
hoặc chấp nhận nợ, hàng hoá được xác định là tiêu thụ.
Bán buôn qua kho gián tiếp: căn cứ vào hợp đồng đã ký kết, đại diện bên
doanh nghiệp xuất kho và giao hàng hoá đến tận kho của bên mua hoặc đến nơi
theo hợp đồng, chi phí vận chuyển có thể là bên mua hoặc bên bán chịu.
2.2.2) Bán lẻ
Là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng với số lượng nhỏ,
giá bán ít biến động, bán đơn chiếc, thông thường thì doanh nghiệp ít khi bán lẻ
vì việc bán lẻ dành cho các đại lý nhỏ, các cửa hàng bán lẻ.
13
Báo cáo quản lý doanh nghiệp
2.2.3) Bán hàng theo phương thức gửi đại lý
Là phương pháp bán hàng mà trong đó doanh nghiệp thương mại giao
hàng cho cơ sở đại lý gửi để các cơ sở này trực tiếp bán hàng. Bên nhận đại lý
trực tiếp bán hàng thanh toán với khách hàng và được hưởng hoa hồng đại lý
bán. Số hàng doanh nghiệp gửi bán vẫn chưa được coi là tiêu thụ, việc tiêu thụ
xác định khi doanh nghiệp thương mại được cơ sở đại lý gửi tiền hàng hay chấp
nhận thanh toán về số hàng đã bán được.
3) Kế hoạch tiêu thụ tại doanh nghiệp
Để tồn tại được doanh nghiệp của mình các nhà quản lý doanh nghiệp,
chủ doanh nghiệp cần phải giám sát, chỉ đạo sát sao mọi hoạt động kinh doanh
diễn ra trong đơn vị mình, nhất là khâu tiêu thụ sản phẩm, để thực hiện tốt vấn
đề này chủ doanh nghiệp phải lên kế hoạch, vạch ra phương hướng cho các nhân
viên kinh tế của mình sao cho bán được nhiều mặt hàng nhất, đúng thời vụ nhất
và có lợi nhuận nhiều nhất.
Để lên kế hoạch trước tiên các nhân viên kinh tế phải nghiên cứu thị
trường, từ đó mới đưa ra được kế hoạch chuẩn xác nhất trong việc tiêu thụ hàng
hoá.
3.1) Nghiên cứu thị trường
Thị trường là nơi mua bán hàng hoá, là nơi để tiến hàng hoạt động mua
bán giữa người bán với người mua.Các nhà kinh doanh chỉ có thể thành công
trên thị trường khi đã hiểu biết về thị trường, vì vậy nghiên cứu thị trường tiêu
thụ hàng hoá phải được coi là có tính chất tiền tệ, có tầm quan trọng để xác định
đúng hướng sản xuất kinh doanh, nghiên cứu thị trường để xác định nhhu cầu
mà các sản phẩm hàng hoá mà doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh, tìm ra
đáp án để trả lời câu hỏi: bán cái gì ? bán cho ai ? bán như thế nào ? để việc tiêu
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét