5
hiện của khuynh hướng chuyên môn hoá và phân chia trong phạm vi cơ cấu của hệ
thống kế toán cũng đã ảnh hưỡng đến sự phân ngành trong kế toán. Trong giai đoạn
này, căn cứ vào mục tiêu đáp ứng thông tin, người ta phân chia hệ thống kế toán
trong doanh nghiệp thành hai loại : Kế toán tài chính và kế toán quản trò.
Mục tiêu của kế toán tài chính là sắp xếp ghi nhận, phân tích và diễn đạt các
sự kiện kinh tế, pháp lý và giao dòch thương mại bằng một đơn vò đo lường tiền tệ,
nhằm cung cấp những dữ liệu cần thiết cho việc lập các báo cáo kế toán như : Bảng
cân đối kế toán, báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh….v….v… .Đối tượng sử dụng
thông tin thường là ban giám đốc và những người bên ngoài doanh nghiệp, chủ yếu
là các nhà đầu tư, các chủ nợ, các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước để đảm
bảo tính trung thực và tạo ra một sự yên tâm cho những người sử dụng.
Mục tiêu của kế toán quản trò là sắp xếp, ghi nhận, phân tích và truyền đạt
các thông tin có liên quan đến việc lập kế hoạch, kiểm soát các bộ phận trong
doanh nghiệp. Nó được đònh hướng vào việc tính toán, phân tích các chi phí, kết qủa
và các mối tương quan, kiểm soát và phân đònh các trách nhiệm giữa các bộ phận
trong doanh nghiệp trong việc thực hiện các dự toán chi tiêu, quyết đònh giá bán,
sản lượng….Thông tin thường được cung cấp chủ yếu cho ban giám đốc để hình
thành các quyết đònh cần thiết và để kiểm soát các bộ phận trong doanh nghiệp,
được sử dụng trong nội bộ, không cung cấp cho bên ngoài.
Trên bình diện tổng quát, mục tiêu của kế toán là thu thập và truyền đạt các
thông tin cần thiết để đưa ra các quyết đònh có liên quan đến quản trò, đầu tư, tài
trợ, tín dụng, cho vay trong một doanh nghiệp. Xét một cách cụ thể hơn, mục tiêu
của kế toán là cung cấp dữ liệu có liên quan đến :
6
- Việc sử dụng các tài nguyên ( Tài sản ) của doanh nghiệp, các nghóa vụ
và trách nhiệm đối với tài nguyên và vốn chủ sở hữu.
- Các biến động về vốn do ảnh hưỡng của các hành vi kinh tế, pháp lý và
các giao dòch thương mại.
- Các thành qủa đạt được của doanh nghiệp trong một thời kỳ kinh doanh
nhất đònh.
1.2. Bản chất và vai trò của hệ thống báo cáo tài chính
1.2.1 Bản chất của hệ thống báo cáo tài chính
Theo hệ thống kế toán doanh nghiệp Việt Nam, báo cáo tài chính được xác
đònh là loại báo cáo tổng hợp về tình hình tài sản, nguồn vốn cũng như tình hình về
kết qủa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất đònh, được
thể hiện thông qua một hệ thống các chỉ tiêu có mối liên hệ với nhau do Nhà nước
quy đònh thống nhất và mang tính pháp lệnh.
Có các yếu tố cơ bản hình thành bản chất của báo cáo tài chính là :
- Những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ.
- Nguyên tắc kế toán của chế độ quy đònh hoặc được thừa nhận.
Theo viện kiểm toán viên công chứng Hoa kỳ ( AICPA ) “ Hệ thống báo cáo
tài chính được lập nhằm mục đích phục vụ cho việc xem xét đònh kỳ về quá trình
hoạt động của nhà quản lý, về tình hình đầu tư trong kinh doanh và những kết qủa
đạt được trong thời kỳ báo cáo. Hệ thống báo cáo tài chính phản ánh sự kết hợp của
những sự kiện được ghi nhận, những nguyên tắc kế toán và những đánh giá của cá
nhân mà trong đó những đánh giá và nguyên tắc kế toán được áp dụng có ảnh
hưởng chủ yếu đến việc ghi nhận các sự kiện. Những đánh giá đúng đắn tuỳ thuộc
7
vào khả năng và sự trung thực của người lập báo cáo, đồng thời phụ thuộc vào sự
tuân thủ đối với những nguyên tắc kế toán đã được chấp nhận rộng rãi.”
Còn theo hai tác giã Bryan Carberg và Susan Dev thì hệ thống báo cáo tài
chính đựơc thiết kế để trình bày những kết qủa của những nghiệp vụ và những sự
kiện xảy ra trong qua khứ và là kênh truyền đạt thông tin chính của những hoạt
động quản lý với thế giới bên ngoài. Báo cáo tài chính được yêu cầu phải tuân thủ
luật công ty, quy chế của thò trường chứng khoán nếu chứng khoán của công ty được
niêm yết. Việc kiểm toán báo cáo tài chính nên được yêu cầu bởi luật pháp bởi vì
nhà quản lý có thể là một nhóm khác biệt với những cổ đông, những người đã giao
phó tài sản của họ cho nhà quản lý.
Như vậy có thể nói, bản chất của báo cáo tài chính là phản ánh sự kết hợp
của những sự kiện xảy ra trong quá khứ với những nguyên tắc kế toán đã được thừa
nhận và những đánh giá của cá nhân, nhằm chủ yếu là cung cấp thông tin tài chính
hữu ích cho các đối tượng sử dụng bên ngoài doanh nghiệp. Một mặt do thông tin
trình bày trên báo cáo tài chính chòu sự chi phối bởi những đánh giá của người lập
báo cáo tài chính, mặt khác do có sự tách biệt giữa sự sỡ hữu và khả năng kiểm
soát của người cung cấp vốn cho doanh nghiệp, nên báo cáo tài chính được lập đòi
hỏi phải được kiểm toán bởi một tổ chức kiểm toán độc lập.
1.2.2 Vai trò của báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính tổng hợp hệ thống các hiện tượng kinh tế phát sinh, giám
đốc sau khi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh kết thúc. Báo cáo tài chính là xuất phát
điểm cho việc thiết kế xây dựng chế độ kế toán, phương pháp kế toán : chứng từ,
tài khoản, tính giá… và là cơ sở để xây dựng các phương pháp kế toán khác. Trong
quá trình tổ chức công tác kế toán của một doanh nghiệp, mục tiêu của hệ thống kế
8
toán và vấn đề trọng tâm chính là hệ thống thông tin các chỉ tiêu kế toán phải trình
bày.
Về mặt kinh tế, báo cáo tài chính cung cấp thông tin cho nhà quản lý và chủ
yếu là các nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp, là công cụ để ra quyết đònh. Theo
“ Báo cáo công ty “ được xuất bản bởi tổ chức kế toán viên chuyên nghiệp ở Anh
và xứ Wales ( 1975 ), những người sử dụng báo cáo tài chính bao gồm :
+ Những người chủ sỡ hữu và cổ đông : Họ cần biết những rũi ro về vốn, cần
các thông tin về các rũi ro tiềm tàng trong các doanh nghiệp có liên quan đến
khoản đầu tư của họ. Họ cần những thông tin để ra các quyết đònh mua bán các
chứng khoán, đánh giá khả năng trả cổ tức của doanh nghiệp.
+ Nhà cho vay : Họ quan tâm đến các thông tin giúp họ xác đònh xem các
khoản nợ gốc và lãi của họ có được trả khi đến hạn không.
+ Nhà cung cấp : Họ quan tâm đến những thông tin có khả năng giúp họ xác
đònh xem những khoản tiền mà doanh nghiệp nợ liệu có được trả đúng hạn không.
Những tín chủ thương mại thường quan tâm đến doanh nghiệp trong khoảng thời
gian ngắn hơn so với các nhà cho vay, trừ trường hợp họ phụ thuộc vào sự liên tục
sản xuất của doanh nghiệp vì doanh nghiệp là khách mua hàng chính của họ.
+ Khách hàng : Họ quan tâm đến những thông tin về khả năng tiếp tục hoạt
động của doanh nghiệp, đặc biệt là khi họ có những mối liên hệ dài hạn hoặc phụ
thuộc vào doanh nghiệp.
+ Nhân viên Công ty : Nhân viên và các nhóm đại diện của họ quan tâm đến
các thông tin về tính ổn đònh và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Họ cũng quan
tâm đến các thông tin giúp họ đánh giá khả năng chi trả lương, trợ cấp hưu trí và
thời cơ tuyển dụng lao động của doanh nghiệp.
9
+ Chính phủ : Họ quan tâm đến việc phân bổ các nguồn lực và vì thế mà họ
quan tâm đến cả hoạt động của doanh nghiệp. Họ cũng yêu cầu các thông tin để
điều chỉnh các hoạt động của doanh nghiệp, xác đònh chính sách thuế và coi đó là
cơ sở cho việc thống kê thu nhập quốc dân cũng như các thống kê khác tương tự.
+ Công chúng : Doanh nghiệp ảnh hưỡng đến công chúng bằng nhiều dạng,
doanh nghiệp có thể đóng góp lớn vào nền kinh tế của đòa phương như tuyển dụng
lao động và mua hàng của nhà cung cấp đòa phương. Các báo cáo tài chính có thể
trợ giúp công chúng bằng việc cung cấp thông tin về xu hướng phát triển và khả
năng tăng trưởng gần , cũng như các lãnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
1.3. Mục tiêu và các tiêu chuẩn của báo cáo tài chính
1.3.1 Môi trường kế toán và các yếu tố ảnh hưỡng
Kế toán cũng như các hoạt động ngành nghề khác là một bộ phận không thể
tách rời khỏi một môi trường nhất đònh. Môi trường kế toán là những điều kiện ràng
buộc và những ảnh hưỡng kinh tế chính trò, xã hội, luật pháp cấu thành môi trường
lý thuyết và môi trường thực hành kế toán. Tất cả những yếu tố này thay đổi theo
thời gian và mang tính lòch sử. Môi trường này luôn luôn biến đổi do đó nó giải
thích mục tiêu của báo cáo tài chính có những biến đổi so với trong quá khứ.
Có ba yếu tố chính trong các yếu tố chi phối :
+ Sự khan hiếm của các tài nguyên thiên nhiên . Điều này bắt buộc con người
rút tỉa và sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhằm đem lại lợi ích cao nhất, đã chi phối
nên việc xây dựng một mô hình thông tin mà ở đó cho phép con người có thể nhận
thức và sử dụng một cách tối ưu các của cải, đồng thời phân biệt được những người
sử dụng tài sản có hiệu quả và lãng phí.
10
+ Sự tách rời giữa người chủ sỡ hữu tài sản và người quản lý và sử dụng các
tài sản. Tương ứng với đặc trưng là sự hình thành một tầng lớp quản trò viên chuyên
nghiệp. Đặc trưng này nó có tác động đến việc xây dựng mô hình thông tin, người
ta đòi hỏi các thông tin kế toán phải giúp cho người chủ sỡ hữu kiểm soát được việc
quản trò và sử dụng có hiệu quả tài sản. Như vậy người ta đã đưa yếu tố kiểm soát
vào mục tiêu xây dựng báo cáo tài chính và yếu tố này ngày nay không thể tách rời
ngành nghề kế toán.
+ Sự xuất hiện một tầng lớp sử dụng thông tin tài chính mới. Chính những
tầng lớp này với những nhu cầu đa dạng và phức tạp đã có ảnh hưỡng đến sự lựa
chọn và trình bày mô hình thông tin trong báo cáo tài chính.
Ngoài các yếu tố trên còn có một số yếu tố khác cũng tác động không nhỏ
đến môi trường kế toán như : Hệ thống luật pháp, luật thuế, mức độ lạm phát, yếu
tố văn hoá, chính trò xã hội….
1.3.2 Mục tiêu của báo cáo tài chính
Theo quan điểm tổng quát, mục tiêu của thông tin trong báo cáo tài chính là
cung cấp những chỉ dẫn hữu ích cho việc lấy các quyết đònh về quản trò, đầu tư, tín
dụng… về một thực thể. Theo một quan điểm ít tổng quát hơn, mục tiêu của thông
tin trong báo cáo tài chính là trình bày những chỉ dẫn cho phép tiên liệu những số
tiền, lòch trình và khả năng thu tiền về trong tương lai.
Tháng 12/1988 ủy ban chuẩn mực kế toán thuộc viện các kế toán viên công
chứng Cana có bổ sung thêm các kiến nghò và hiện nay đã có hiệu lực pháp lý
liên quan đến việc trình bày các thông tin kế toán như sau: “ Mục tiêu của báo cáo
tài chính là truyền đạt những thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, các chủ nợ và
những người sử dụng khác cần phải đưa ra các quyết đònh và sung dụng tài nguyên
11
hoặc đánh giá những thể thức mà ban giám đốc thực hiện nhiệm vụ quản trò của
mình “ . Do đó báo cáo tài chính phải cung cấp các thông tin về :
+ Các tài sản có, các quyền và nghóa vụ, các vốn riêng của chủ sỡ hữu trong
một thực thể kinh tế.
+ Sự tiến triễn của các tài sản, các quyền lợi, nghóa vụ và vốn của chủ sỡ
hữu.
+ Thành tích kinh tế của một thực thể.
Nói cách khác, mục đích của báo cáo tài chính là cung cấp những thông tin
về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và những biến động về tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Những thông tin này rất hữu ích giúp cho người sử dụng ra
các quyết đònh kinh tế kòp thời.
Các báo cáo tài chính được lập theo mục đích này đáp ứng những yêu cầu
chung của hầu hết những người sử dụng . Tuy nhiên, các báo cáo tài chính không
cung cấp toàn bộ các thông tin mà người sử dụng yêu cầu để ra các quyết đònh về
quản lý kinh tế vì chúng chỉ đưa ra những ảnh hưỡng tài chính quá khứ và cũng
không bắt buộc cung cấp các thông tin phi tài chính.
Báo cáo tài chính cũng trình bày kết qủa về khả năng và trách nhiệm quản lý
của các nhà quản lý doanh nghiệp đối với những nguồn lực mà họ được phép sử
dụng. Những người sử dụng muốn đánh giá về khả năng và trách nhiệm quản lý
của các nhà quản lý, điều này sẽ giúp người sử dụng ra các quyết đònh quản lý kinh
tế kòp thời. Ví dụ , quyết đònh giữ lại hay bán các khoản đầu tư, bổ nhiệm hay thay
thế các nhà quản lý.
12
1.3.3 Các tiêu chuẩn chất lượng của thông tin kế toán
Sau khi đã xác đònh mục tiêu của báo cáo tài chính, vấn đề tiếp theo là xác
đònh số lượng và loại thông tin phải cung cấp, hình thức mà thông tin này nên được
trình bày. Tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá sự lựa chọn về kế toán là tiêu chuẩn về
tính hữu ích cho việc lấy các quyết đònh. Để có thể phân biệt giữa một thông tin có
chất lượng cao ( hữu ích hơn ) và một thông tin có phẩm chất kém ( ít hữu ích ) phải
kể đến các tiêu chuẩn làm cho thông tin có ích. Trong tài liệu của y ban chuẩn
mực kế toán quốc tế ( IASC), người ta nêu ra các tính chất đònh tính cơ bản làm cho
các thông tin trong báo cáo tài chính có ích cho người sử dụng. Đó là : Dể hiểu, phù
hợp, đáng tin cậy và so sánh được. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, có thể bổ
sung tính nhất quán trong việc vận dụng các phương pháp kế toán bởi vì tính chất
này bổ sung và làm cho tính có thể so sánh trở nên tốt hơn.
1.3.3.1 Tính dể hiểu
Chất lượng cơ bản của các thông tin do các báo cáo tài chính cung cấp là
những thông tin này phải dể hiểu đối với người sử dụng. Người sử dụng ở đây được
hiểu là người có kiến thức về kinh doanh và hoạt động kinh tế, hiểu biết về kế toán
ở mức vừa phải, sẵn lòng nghiên cứu các thông tin được cung cấp với mức độ tập
trung suy nghó vừa phải. Tuy nhiên, thông tin về những vấn đề phức tạp cần được
kèm theo báo cáo tài chính vì nó phục vụ cho các yêu cầu ra quyết đònh về quản lý
kinh tế của người sử dụng, những thông tin này không thể bò loại ra vì lý do là nó có
thể sẽ là rất khó hiểu đối với người sử dụng.
13
1.3.3.2 Tính thích hợp
Để có ích, các thông tin phải phù hợp để đáp ứng các yêu cầu đưa ra các
quyết đònh kinh tế của người sử dụng. Những thông tin có chất lượng phù hợp là
những thông tin có tác động đến quyết đònh kinh tế của người sử dụng bằng cách
giúp họ đánh giá các sự kiện qúa khứ, hiện tại, tương lai hoặc xác nhận, chỉnh lý
các đánh giá quá khứ của họ. Vai trò xác nhận và dự đoán của các thông tin có
quan hệ tương hổ lẫn nhau. Ví dụ các thông tin về mức độ tài sản và cơ cấu tài sản
hiện có rất có giá trò đối với người sử dụng khi họ muốn dự đoán khả năng của
doanh nghiệp để tận dụng cơ hội và phản ứng với các tình huống ngược lại. Các
thông tin tương tự đóng vai trò xác nhận về các chẩn đoán quá khứ, ví dụ, tìm ra
cách thức để xây dựng nên doanh nghiệp hoặc lập kế hoạch kinh doanh.
Tuy nhiên nếu có sự chậm trể trong việc báo cáo các thông tin thì sự chậm
trể đó có thể làm mất đi tính phù hợp của các thông tin. Vì vậy, thông tin phải được
công bố kòp thời để các đối tượng sử dụng đưa ra các quyết đònh đúng lúc, trước khi
các cơ may có ảnh hưỡng đến quyết đònh của họ trôi qua. Để cung cấp những thông
tin trên cơ sở kòp thời, người ta cho rằng cần thiết phải báo cáo trước khi tất cả các
phương diện của giao dòch hoặc sự kiện được nhận biết.
Như vậy, để thông tin trên báo cáo kế toán được thích hợp, nó phải có các
phẩm chất : Một giá trò dự kiến, một giá trò xác nhận và sự công bố kòp thời.
1.3.3.3 Tính đáng tin cậy
Để hữu ích, thông tin phải đáng tin cậy. Các thông tin có chất lượng đáng tin
cậy khi chúng không mắc những sai lầm nghiêm trọng hoặc phản ánh méo mó một
cách cố ý và có thể phụ thuộc vào người sử dụng khi sử dụng các thông tin đó cho
một mục đích khách quan hợp lý. Các thông tin có thể thích hợp nhưng lại không
14
đáng tin cậy về bản chất hoặc cách trình bày bởi vì các thông tin này có thể có
những sai lầm mà người ta chưa phát hiện ra.
Một thông tin có độ tin cậy phải hội đủ các phẩm chất sau đây :
+ Trình bày trung thực
Để có độ tin cậy, các thông tin phải được trình bày một cách trung thực về
những giao dòch và các sự kiện khác có liên quan. Nó trợ giúp cho việc trình bày
hoặc có thể được dự kiến là hợp lý để trình bày. Hầu hết các thông tin tài chính đều
phụ thuộc vào một số rũi ro do việc trình bày chưa chính xác với tình hình thực tế,
ví dụ thông tin không khách quan vô tư hoặc do những khó khăn tiềm tàng trong
việc xác đònh các nghiệp vụ sự kiện. Vì vậy báo cáo tài chính cần trình bày một
cách trung thực các nghiệp vụ, sự kiện khác có liên quan đến việc đánh giá tài sản
có, công nợ, vốn tự có của doanh nghiệp vào thời điểm lập báo cáo mà những chỉ
tiêu đó đáp ứng được yêu cầu của các tiêu thực hạch toán.
+ Hình thái sỡ hữu
Nếu thông tin được trình bày một cách trung thực về những nghiệp vụ và sự
kiện khác mà chúng phải trình bày, điều cần thiết ở đây là những thông tin đó được
tính toán và trình bày phù hợp với bản chất kinh tế và hình thái sỡ hữu chứ không
đơn thuần chỉ là hình thức pháp lý của chúng. Hình thái của các giao dòch hoặc các
sự kiện không phải lúc nào cũng nhất quán với hình thức pháp lý hoặc hình thức cơ
cấu của chúng. Ví dụ : Một doanh nghiệp có thể nhượng bán một tài sản cho doanh
nghiệp khác theo phương thức nào đó để lập thành những chứng từ chuyển giao
quyền sỡ hữu pháp lý cho người mua, nhưng cũng có thể trong thoả thuận mua bán
sẽ có một điều khoản là doanh nghiệp tiếp tục được hưỡng các lợi ích kinh tế do tài
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét