hưởng nhiều dịch vụ của Ngân hàng và họ đánh đổi tính lỏng lấy thu nhập từ tài 
sản của họ.
Tiền gửi trên tài khoản tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch phổ biến nhất, 
tiền gửi tiết kiệm có thể có hoặc không có kỳ hạn.Tiền gửi không kỳ hạn có thể 
được gửi thêm hoặc rút ra bất kỳ khi nào.Tiền gửi có kỳ hạn : về nguyên tắc không 
được rút trước hạn tuy nhiên do cạnh tranh về huy động vốn, các NHTM đã cho 
phép khách hàng rút theo yêu cầu sau khi họ phải chịu mức phạt tiền lãi. Đây là 
nguồn vốn có thời hạn dài nên chi phí cao và khá ổn định.Tiền gửi kỳ hạn của các 
tổ chức kinh tế xã hội: là những khoản tiền gửi có thời gian đến hạn xác định từ 
một vài tháng đến vài năm. Lãi suất phải trả cho loại tiền gửi này khá cao và tương 
quan với kỳ hạn, có thể với cả quy mô tiền gửi tuỳ theo sự vận dụng của mỗi Ngân 
hàng.
c) Huy động vốn bằng cách đi vay 
* Vay chiết khấu hay tái cấp vốn của Ngân hàng Trung ương 
Việc vay vốn từ Ngân hàng Trung ương nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời của 
nguồn vốn do sự giảm sút số vốn hiện có so với tài sản của Ngân hàng thương mại. 
Tuy nhiên nhu cầu khoản vay này phải phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Trung 
ương, ở nhiều nước khoản vay này phải ký quĩ bằng thương phiếu hoặc các giấy tờ 
có giá khác, chẳng hạn: hối phiếu chấp nhận thanh toán. Đặc điểm nguồn vốn này 
là thời hạn ngắn do đó các Ngân hàng thương mại phải tăng cường huy động các 
nguồn vốn khác để trả nợ ngay khi đến hạn. Là nguồn vốn quan trọng khi gặp khó 
khăn trong cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn. Chi phí vốn cho tiền vay thường 
cao hơn so với các nguồn khác.
* Vay các tổ chức tín dụng khác
Các Ngân hàng thương mại có thể vay vốn của các tổ chức tín dụng khác 
trên thị trường liên Ngân hàng trong nước hoặc quốc tế. Tiền vay có thời hạn từ 
một ngày (Over night) đến một vài tháng để bù đắp thiếu hụt trong cân đối nguồn 
5
5
vốn và sử dụng vốn tuy nhiên đây là nguồn vốn thường có thời hạn ngắn và chi phí 
cao nên việc vay mượn có tính tạm thời, về lâu dài các Ngân hàng thương mại tìm 
cách khai thác nguồn vốn tiền gửi để trả khoản nợ này.
d) Huy động vốn bằng các hình thức khác khác 
*Phát hành các giấy tờ có giá
Các NHTM phát hành kỳ phiếu và trái phiếu với đặc điểm là có kỳ hạn và 
khoản lãi được hưởng ghi trên bề mặt của nó. Hình thức huy động vốn này được 
thực hiện với mục đích sử dụng vốn rõ ràng, số lượng và thời gian phát hành nhất 
định khi cần thiết. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt 
Nam kỳ phiếu Ngân hàng thường chiếm khoảng 50% nguồn vốn huy động có kỳ 
hạn. Trường hợp khách hàng rút vốn trước hạn Ngân hàng thanh toán tiền lãi theo 
lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn xuất phát từ lý do cạnh tranh và yêu cầu 
bảo vệ quyền lợi của khách hàng.
Đặc điểm của khoản nợ này là có tính ổn định cao, quyền đòi tiền thường xếp 
sau các khoản tiền gửi. Hiện nay ở Việt Nam có một số loại giấy tờ có giá có thể 
được mua bán trên thị trường trong khi với các nước có thị trường tài chính phát 
triển, hoạt động mua bán các công cụ nợ diễn ra khá phổ biến và sôi động.
* Nhận vốn uỷ thác đầu tư 
Đối với một số Ngân hàng thương mại, ngoài nguồn vốn huy động, vay tái 
cấp vốn của Ngân hàng trung ương còn có thể nhận được nguồn vốn ủy thác đầu tư 
của nhà nước và các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế theo các chương trình, 
dự án có mục tiêu cụ thể. Để được nhận nguồn vốn này, các Ngân hàng phải lập dự 
án cho từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng phù hợp với đối tượng các khoản vay. 
Hiện nay, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đang nhận 
vốn uỷ thác của các dự án: Phục hồi và Phát triển Nông thôn, dự án tín dụng Nông 
thôn .v v 
* Sử dụng các nguồn vốn khác 
6
6
Thực hiện chức năng trung gian thanh toán, các Ngân hàng thương mại có thể 
sử dụng kết dư trên các tài khoản thanh toán vãng lai như chênh lệch thu hộ lớn 
hơn chi hộ các Ngân hàng khác trong thanh toán liên hàng. Ngoài ra còn có thể có 
số dư trên các tài khoản ký quĩ hoặc các khoản quản lý, giữ hộ nhưng số vốn này 
không nhiều và Ngân hàng không chủ động trong việc tập trung nguồn vốn này.
Như vậy, các Ngân hàng thương mại tạo lập nguồn vốn chủ yếu bằng 
phương thức huy động vốn để khai thác nguồn vốn nhàn rỗi, vốn trong thanh toán 
của khách hàng, trường hợp mất cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn có thể vay 
vốn các tổ chức tín dụng hoặc dưới hình thức chiết khấu của Ngân hàng Trung 
ương và có thể nhận vốn ủy thác đầu tư cùng với số vốn của chủ sở hữu để có 
nguồn vốn với qui mô nhất định đủ tài trợ cho danh mục tài sản. Phương thức huy 
động vốn nhàn rỗi trong xã hội giữ vai trò quan trọng nhất do nó cho phép khai 
thác, phát huy nội lực để phát triển kinh tế đồng thời thường có chi phí thấp hơn so 
với các nguồn vốn khác.
1.1.1.3. Chức năng của NHTM
a) Chức năng trung gian tài chính
Đây là chức năng quan trọng nhất của NHTM. NHTM nhận tiền gửi và cho 
vay chính là đẫ thực hiện việc chuyển tiền tiết kiệm thành tiền đầu tư.
Những chủ thể dư thừa vốn cũng có thể trực tiếp đầu tư bằng cách mua các 
công cụ tài chính sơ cấp như: cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp hoặc chính phủ 
thông qua thị trường tài chính. Nhưng thị trường tài chính trực tiếp đôi khi không 
đem lại hiệu quả cao nhất cho người đầu tư vì: khó tìm kiếm thông tin, chi phí tìm 
kiếm thông tin lớn, chất lượng thông tin không cao, chi phí giao dịch lớn và phải 
có sự trùng khớp về nhu cầu giữa người thừa vốn và người thiếu vốn về số lượng, 
thời hạn chính vì thế NHTM với tư cách là một trung gian tài chính đứng ra nhận 
tiền gửi tiết kiệm và cung cấp vốn cho nền kinh tế với số lượng và thời hạn phong 
phú và đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu về vốn của khách hàng có đủ điều kiện vay 
vốn. Với mạng lưới giao dịch rộng khắp, các dịch vụ đa dạng, cung cấp thông tin 
7
7
nhiều chiều, hoạt động ngày càng phong phú chuyên môn hoá vào từng lĩnh vực 
NHTM đã thực sự giải quyết được những hạn chế của thị trường tài chính trực tiếp, 
góp phần nâng cao hiệu quả luân chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường.
b) Chức năng trung gian thanh toán
Thông qua chức năng làm trung gian tài chính NHTM làm tăng lượng tiền 
trong lưu thông và cung cấp cho những người đầu tư những chứng khoán có tính 
lỏng cao hơn và có rủi ro thấp hơn do đó sẽ an toàn hơn khi nhà đầu tư nắm giữ 
những chứng khoán sơ cấp do doanh nghiệp, công ty phát hành.
 Các NHTM còn cung cấp một danh mục phương tiện thanh toán rất đa dạng 
và phong phú: sec chuyển tiền, sec chuyển khoản, thẻ tín dụng sự xuất hiện của 
các phương tiện thanh toán này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng giao 
dịch thương mại, mua bán hàng hoá an toàn nhanh chóng, chi phí thấp.
c) Chức năng tạo tiền
Chức năng tạo tiền là chức năng cực kỳ quan trọng của NHTM. Chức năng 
này được thể hiện trong quá trình NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế và hoạt 
động đầu tư của NHTM, trong mối quan hệ với NHTƯ đặc biệt trong quá trình 
thực hiện chính sách tiền tệ mà mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị 
đồng tiền. Từ một lượng tiền cơ sở do NHTƯ phát hành qua hệ thốngNHTM sẽ 
được tăng lên gấp bội khi NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế. Khối lượng tiền 
qua hệ thống ngân hàng được tính theo công thức :
 D = m.MB
D: khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng
MB: khối lượng tiền cơ sở
M=1/rd: hệ số nhân tiền
rd : tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Ngân hàng Trung ương có thể điều tiết khối lượng tiền cung ứng bằng cách 
thay đổi lượng tiền tỷ lệ dự trữ bắt buộc để tăng hoặc giảm khả năng tạo tiền của 
8
8
NHTM từ đó ảnh hưởng đến khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế do đó đạt được 
hiệu quả mà mục tiêu chính sách tiền tệ đặt ra .
1.1.2. Vai trò của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.1.2.1. Cơ cấu nguồn vốn của NHTM
a) Vốn tự có
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được 
thuộc về sở hữu của ngân hàng. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài 
để hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ lệ nhỏ 
trong tổng nguồn vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi 
thành lập một ngân hàng.
Do tính chất ổn định của nó, Ngân hàng có thể sử dụng vào các mục đích 
khác nhau như trang bị cơ sở vật chất, mua tài sản cố định, dùng để đầu tư hay góp 
vốn liên doanh… vốn tự có là căn cứ quyết định khả năng thanh toán khi Ngân 
hàng gặp rủi ro. Sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định năng lực và sự phát 
triển của NHTM. Vốn tự có của Ngân hàng được hình thành căn cứ vào hình thức 
tổ chức của NHTM là: NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần hay NHTM liên 
doanh…
Vốn tự có gồm các thành phần: vốn tự có cơ bản, vốn tự có bổ sung.
b) Vốn huy động
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ 
chức kinh tế và cá nhân trong xã hội, thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ tín 
dụng, thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Nguồn vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, Ngân hàng 
chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng 
thời hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút.Vốn huy động đóng 
vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của NHTM.
9
9
Nguồn vốn huy động không ngừng tăng lên, tỷ lệ thuận với mọi thành phần 
kinh tế trong xã hội. Do đó, các NHTM luôn quan tâm khai thác để mở rộng tín 
dụng. Nhưng nguồn vốn này chỉ được sử dụng một phần để kinh doanh, còn phải 
dự trữ một tỷ lệ hợp lí để đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn huy động gồm có: 
Vốn tiền gửi và phát hành những giấy tờ có giá.
c) Vốn đi vay
Vốn đi vay: là khoản tiền vay muợn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả 
năng huy động vốn bị hạn chế. Đây là nguồn chủ yếu để chống rủi ro thanh khoản 
của các ngân hàng.
- Vay từ NHTW là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả 
của NHTM. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu (tái cấp vốn). 
Các thương phiếu đã được các NNTM chiết khấu (tái chiết khấu) trở thành tài sản 
của họ. Khi cần tiền ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại 
NHNN. Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất 
lượng như thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao và phù hợp với mục tiêu 
của NHNN trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương phiếu NHNN cho 
NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Nguồn 
vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong ngân hàng, nó chủ yếu là vốn ngắn hạn, chi phí 
cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của NHTW.
d) Vốn khác
Vốn khác là toàn bộ giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được thông qua 
việc cung cấp các phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ ủy thác đầu tư. 
Bao gồm nguồn ủy thác, nguồn thanh toán và các nguồn khác
1.1.2.2. Vai trò của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng 
a) Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức với mọi hoạt động kinh doanh 
Trong nền kinh tế thị trường bất kỳ doanh nghiệp nào muốn sản xuất kinh 
doanh cũng cần có vốn, vốn quyết định đến khả năng kinh doanh của doanh 
10
10
nghiệp. Đối với NHTM vốn là đói tượng kinh doanh chủ yếu, vốn là cơ sở để ngân 
hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Nếu thiếu vốn NHTM không thể thực 
hiện các hoạt động kinh doanh. Vì thế những ngân hàng có vốn lớn sẽ có thế mạnh 
trong kinh doanh. Vốn là điểm xuất phát đầu tiên trong hoạt động kinh doanh của 
NHTM.
b) Nguồn vốn là nền tảng quyết định quy mô của hoạt dộng tín dụng và các 
hoạt động khác của NHTM
Ngoài vai trò là cơ sở để ngân hàng tổ chức các hoạt động kinh doanh, vốn 
còn quyết định đến việc mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tín dụng và các hoạt 
động khác của NHTM.
Vốn tự có của ngân hàng ngoài viẹc sử dùng để mua sắm TSCĐ, trang thiết 
bị, góp vốn liên doanh Vốn tự có của ngân hàng là căn cứ để giới hạn các hoạt 
động kinh doanh tiền tệ bao gồm cả hoạt động tín dụng. Việc quy định tỷ lệ cho 
vay, tỷ lệ huy động vốn trên vốn tự có của NHTƯ thể hiện vai trò quản lý, điều tiết 
thị trường của nhà nước, để đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và đảm bảo 
quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. 
 Những quy định về mức cho vay, mức huy động trên Vốn tự có như:
 - Mức cho vay một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có
 - Mức vốn huy động không được vượt quá 20 lần vốn tự có
 - Mua cổ phần hoặc góp vốn liên doanh không được vượt quá 50% vốn tự có
Qua những quy định của NHTƯ đối với NHTM ta thấy vốn tự có quyết định đến 
khả năng cấp tín dụng, huy động vốn của NHTM vì thế những NHTM có vốn tự có 
lớn thì quy mô tín dụng càng lớn và ngược lại. Không những vốn tự có ảnh hưởng 
đến hoạt động kinh doanh mà vốn huy động cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động 
tín dụng và hoạt động khác .Vốn tự có rất quan trọng nhưng chỉ chiếm một phần 
rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất và là nguồn 
vốn chủ yếu để ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh doanh do đó ngân hàng 
11
11
nào có nguồn vốn huy động càng lớn thì khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế và 
các hoạt động khác càng được mở rộng.
c) Nguồn vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân 
hàng trên thị trường
Một NHTM có thể thu hút được đông đảo khách hàng đến gửi tiền và sử 
dụng các dịch vụ của ngân hàng đó khi ngân hàng đó có uy tín trên thị trường. Uy 
tín của ngân hàng trước hết thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách 
hàng khi họ yêu cầu. Khả năng thanh toán của ngân hàng thông thường tỷ lệ thuận 
với khối lượng vốn mà ngân hàng đó có. Nếu có lớn vốn năng lực thanh toán của 
ngân hàng được nâng cao, do đó uy tín của ngân hàng được nâng cao từ đó sẽ thu 
hút được nhiều khách hàng và nâng cao được vị thế của ngân hàng trên thị trường.
d) Vốn là một trong những yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của 
ngân hàng.
Với mỗi ngân hàng quy mô, trình độ công nghệ hiện đại là tiền đề để thu 
hút vốn. Đồng thời khả năng về vốn lớn là cơ sở để ngân hàng mở rộng khối lượng 
tín dụng và có thể quyết định cả mức lãi suất cho vay. Do đó có tiềm lực về vốn 
lớn ngân hàng có thể giảm mức lãi suất cho vay từ đó tạo cho ngân hàng ưu thế 
trong cạnh tranh, và giúp ngân hàng có tiềm lực trong việc mở rộng các hình thức 
liên doanh, liên kết, cho thuê, mua bán nợ, kinh doanh chứng khoán 
Vốn có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng. Do 
đó ngân hàng phải luôn chú trọng đến việc phát triển nguồn vốn một cách ổn định 
cả về vốn huy động và vốn tự có. 
1.1.2.3. Các hình thức huy động vốn của NHTM
a) Nhận tiền gửi
- Tiền gửi không kỳ hạn: là khoản tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng 
nhưng khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào và ngân hàng phải luôn đảm bảo yêu 
cầu này.
12
12
Mục đích của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng là an toàn và hưởng 
các dịch vụ ngân hàng, tạo mối quan hệ với ngân hàng. Tỷ trọng tiền gửi không kỳ 
hạn của tổ chức kinh tế trong tổng nguồn vốn của ngân hàng cao và nguồn vốn 
này có tính ổn định tương đối cao vì bao giờ các tổ chức kinh tế cũng duy trì ít 
nhất ở một số dư nhất định. Đối với nguồn vốn này ngân hàng chỉ phải trả lãi thấp 
nhưng chi phí phi lãi rất cao. Đó là chi phí mua và vận hành ATM, chi phí phục 
vụ 
- Tiền gửi có kỳ hạn : là khoản tiền khách hàng gửi vào ngân hàng mà có sự 
thoả thuận về thời hạn trong đó khách hàng không được rút trước hạn.
Đây là nguồn vốn mà khách hàng gửi vào ngân hàng với mục đích sinh lời là 
chủ yếu và ngân hàng phải trả lãi cao hơn hơn tiền gửi không kỳ hạn. Đây là nguồn 
vốn có tính ổn định rất cao nhưng thường có thời hạn ngắn vì đây là những khoản 
tiền tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và 
nguồn vốn này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.
b) Nhận tiền gửi tiết kiệm
- Tiền gửi không kỳ hạn 
Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với mục đích an toàn là chủ yếu và 
hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Đối với nguồn vốn này chi phí trả lãi ngân hàng 
bỏ ra không đáng kể nhưng chi phí trả lãi rất cao. Ở các nước phát triển thì tỷ trọng 
nguồn vốn này rất cao nhưng các nước đang phát triển thì tỷ trọng này lại rất thấp 
do người dân chưa có thói quen sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Nguồn vốn từ 
tiền gửi không kỳ hạn của cá nhân, hộ gia đình có tính ổn thấp do nhu cầu tiêu 
dùng của cá nhân, hộ gia đình không ổn định, khi cần khách hàng có thể rút tiền ra 
bất cứ lúc nào do đó ngân hàng phải chuẩn bị sẵn một khoản tiền để đáp ứng nhu 
cầu của khách hàng.
- Tiền gửi có kỳ hạn
13
13
Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với mục đích sinh lời là chủ yếu. Tiền 
gửi có kỳ hạn của cá nhân và hộ gia đình chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn 
huy động và là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng cho vay. Nguồn vốn này có tính 
ổn định cao nhất và ngân hàng phải trả lãi rất cao cho nguồn vốn này.
c) Phát hành GTCT
Ngày nay trong hoạt động kinh doanh của các NHTM cạnh tranh là yếu tố 
không thể thiếu được. Các NHTM cạnh tranh nhau về lãi suất huy động đến lãi 
suất cho vay. Trong lĩnh vực huy động vốn các NHTM phải luôn luôn tìm các biện 
pháp để có thể huy động được đủ nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu sử dụng vốn của 
mình. Các NHTM không chỉ sử dụng các công cụ truyền thống để huy động vốn 
mà còn đưa ra các các công cụ mới có hiệu quả hơn để huy động vốn một cách dễ 
dàng đáp ứng nhu cầu vốn của mình và kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng đã ra đời. 
Kỳ phiếu và trái phiếu là giấy tờ có giá xác nhận khoản nợ của ngân hàng với 
người nắm giữ. Kỳ phiếu được phát hành thường xuyên và có kỳ hạn ngắn: 3, 
6 12 tháng. Trái phiếu thường có kỳ hạn lớn hơn 1 năm.
Việc phát hành kỳ phiếu , trái phiếu có ưu thế: giúp ngân hàng huy động được 
đúng số lượng vốn cần thiết và có thời hạn đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của ngân 
hàng. Tuy nhiên chi phí của nguồn vốn này tương đối cao do ngân hàng phải trả lãi 
cao hơn các hình thức huy động truyền thống. 
1.2. Hiệu quả huy động vốn và các chỉ tiêu đo lường hiệu quả huy động vốn
1.2.1. Khái niệm hiệu quả huy động vốn của NHTM
Ý nghĩa hiệu quả huy động vốn:
Nguồn vốn là yếu tố cần thiết đầu tiên cần thiết cho hoạt động kinh doanh 
của ngân hàng thương mại, luật pháp của mỗi quốc gia đều quy định mức vốn tối 
thiểu mà ngân hàng phải có ngay từ khi thành lập. Mặt khác trong quá trình hoạt 
động sản xuất kinh doanh trên thị trường, các ngân hàng có thể huy động thêm vốn 
từ nhiều nguồn khác nhau.
14
14
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét