Chương 1: Khái quát chung về dân tộc Miêu ở Trung Quốc.
1.1: Dân số và địa bàn phân bố chủ yếu của dân tộc Miêu ở Trung Quốc:
Người Miêu là một trong những tộc người thiểu số có dân số đông dân nhất
Trung Quốc. Từ lâu, người Miêu đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan
tâm và nghiên cứu và được xếp chung vào với người Dao
(1)
, Xá
(2)
do có quan hệ
nguồn gốc, thuộc nhóm Miêu-Dao
(3)
, là tộc người có lịch sử hình thành và phát
triển lâu đời. Dân tộc Miêu có dân số hơn 9 triệu người, cư trú tập trung chủ yếu ở
các tỉnh như Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Hải Nam, Hồ
Bắc ( thuộc các vùng Hoa Nam và Tây Nam Trung Quốc)
5
Khu vực cư trú chủ yếu của người Miêu trên đất Trung Quốc
(1)
Người Dao có dân sồ 2.134.000, sống ở các tỉnh Quý Châu, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây, Quảng Đông vv
Ngoài ra, người Dao còn di cư đến Việt Nam, Lào v.v [www.guxiang.com]
(2)
Dân tộc Xá có dân số khoảng 634.700 người, hiện cư trú rải rác ở Phúc Kiến, Triết Giang, Giang Tây, Quảng
Đông, chủ yếu sinh sống ở vùng núi cao từ 500m-1000m [www.guxiang.com]
(3)
Nhóm Miêu-Dao bao gồm tiếng Miêu, Dao, Xá, Bunu, Ho và một số nhóm nhỏ khác [www.hndlink.org]
Tại Việt Nam, nhóm người Miêu di cư đến từ thế kỷ XVIII-XIX dưới tác động
của lịch sử, hiện đang sinh sống tại các vùng rẻo cao Tây Bắc và dải phía tây vùng
Thanh-Nghệ-Tĩnh. Ngoài Trung Quốc và vùng Đông Nam Á lục địa, người Miêu
còn di cư sang Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Úc, Pháp tình hình phân bố của người Miêu
trên thế giới được thể hiện qua bảng sau:
Trung
Quốc
Việt
Nam
Lào Thái
Lan
Bum
ar
Mỹ Pháp Guiana Canada New
Zealan
d
Úc Argenti
na
Tổng
cộng
7.900 630 450 95 60 300 15 1,8 0,64 0,15 1,5 0,25 9454,3
Bảng số liệu phân bố dân cư của dân tộc Miêu trên thế giới. Đơn vị: nghìn người.
Số liệu năm 2007. nguồn [hmongcc.org/…]
6
1.2: Danh pháp và tên gọi:
Người Miêu được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau. Họ tự gọi mình là Miêu Đen,
Miêu Đỏ, Miêu Trắng, Miêu Hoa. Ở Trung Hoa cũng có nhiều tên gọi khác nhau
như Cửu Lê, Tam Miêu, Vưu Miêu, Miêu Dân, Miêu Man, Miêu tộc. Người Trung
Hoa xưa phân biệt sắc tộc Hmong ra làm hai loại: loại đã thuần (shu) và loại
hoang (sheng). Loại Hmong thuần là nhóm đã được đồng hóa với người Hoa, còn
loại hoang là nhóm sống biệt lập trong rừng, thoát ngoài vòng kiềm tỏa của chính
quyền. Những nhà truyền giáo Tây phương lần đầu tiếp xúc với nhóm Hmong
sống hoang dã ở vùng Tứ Xuyên, Vân Nam vào thế kỷ XVII rất lấy làm ngạc
nhiên là họ không có nét thuần Á châu mà lại phảng phất giống Caucasian, nhiều
người lại có màu tóc hung hoặc bạch kim, và vài người lại có mắt xanh. Có thể là
vì thế mà người Hoa gọi họ là Miêu, hay Mèo chăng? Ở Việt Nam, thì có tên là
Hmông, Mông, Mèo. Theo Giáo sư Mạc Đường: người Miêu tự gọi mình là Mống
và cũng có 5 ngành chính là Mèo Trắng, Mèo Hoa, Mèo Đen, Mèo Đỏ và Mèo
Sua. Ở Lào, Thái Lan, Myanma thì có tên gọi Hmong. Hmông và Mông là một.
Theo Trần Trí Dõi thì người Hmông không đồng ý gọi mình là Hmông mà thay
vào đó là Mông. Nhưng tên gọi phổ biến là Miêu.
1.3: Lịch sử hình thành, phát triển và quá trình thiên di của dân tộc Miêu
Nhiều nhà sử học đồng ý rằng trong thời cổ đại giống Hmong-Miêu xuất phát từ
châu Âu, di dân dần đến vùng đồng khô Siberia (Tây Bá Lợi Á), rồi mới đến định
cư ở lưu vực sông Hoàng Hà vài ngàn năm trước. Huyền thoại của dân tộc Miêu
còn lưu truyền vẫn nhắc đến tổ tiên của họ vốn đã sống ở một vùng quanh năm
tuyết phủ, băng giá, ngày và đêm kéo dài đến cả 6 tháng. Với người Miêu sống ở
vùng nhiệt đới Đông Nam Á, chẳng hề thấy tuyết cho nên ngôn từ họ dùng để kể
chuyện là "nước cứng" và "cát trắng mịn".
7
Số phận dân tộc Miêu bắt đầu gắn liền với sử Trung Quốc có thể vào khoảng từ
3000 trước Công Nguyên đến 1200 trước Công Nguyên.
Khoảng 2700 trước Công Nguyên, những di dân từ Siberia đã đi dần xuống vùng
trung thổ qua khu vực mà ngày nay gọi là Manchuria, Hà Bắc khi khí hậu ấm áp
hơn cho phép, và người Miêu đã định cư tại lưu vực sông Hoàng Hà ở vùng
thượng Hà Nam. Lúc bấy giờ đã có bộ tộc Hoa Yangshao chiếm cứ vùng Thiểm
Tây, Sơn Tây và Hà Nam cả ngàn năm trước. Bộ tộc này chỉ là bộ lạc miền núi
chuyên về phá rừng du canh. Về sau bộ tộc Hoa Yangshao này hòa nhập với bộ
tộc Hoa Lungshan chuyên về ruộng nước ở Sơn Đông.
Nhiều truyền thuyết nói đến sự hùng mạnh của Miêu tộc ở vào thời tiền sử của
Trung Hoa, đưa đến chỗ xung đột không thể tránh khỏi giữa các thế lực lúc bấy
giờ. Theo người Hoa thì Hiên Viên (Huan-yuan) sau khi thống lĩnh các thị tộc
người Hoa (khoảng 2697 trước Công Nguyên), liền tìm cách tiêu diệt luôn Si Vưu
là tù trưởng của Miêu tộc để chiếm miền lưu vực Hoàng Hà mà vào bản bộ của
Trung Quốc. Sau khi toàn thắng, Hiên Viên lên ngôi xưng là Hoàng đế mở đầu
thời Ngũ đế, đồng thời với Họ Hồng Bàng của Việt sử. Người ta lại gán cho thời
Hoàng đế kéo dài đúng 100 năm, và dưới thời này người Hoa đã phát minh ra
được thuyền bè, xe kéo, cung tên, áo giáp, nông cụ bằng đá, đồ dùng bằng gỗ và
đất nung, biết xây nhà cửa to lớn, biết làm lịch chia ra 12 giáp, chu kỳ 60 năm để
đoán ngày tháng gieo trồng vv Hẳn nhiên Hoàng Đế chỉ là một nhân vật huyền
thoại của người trung Quốc, bởi cho đến nay các cuộc khảo sát vẫn không tìm ra
được bằng chứng gì về triều đại này. Tuy nhiên huyền thoại này đã nói lên được
sự xung đột giữa 2 dân tộc Hoa - Miêu đã xảy ra rất sớm, và từ đó cứ kéo dài mãi
suốt lịch sử Trung Quốc.
Năm 1576 trước Công Nguyên, vua Thang, thực ra chỉ là một tù trưởng thuộc bộ
lạc tộc Thương, lôi kéo được các bộ lạc khác diệt được vua Kiệt của nhà Hạ (Xia
8
hay Hsia), lập ra Nhà Thương (Shang hay Yin) (1576 - 1059 trước Công Nguyên),
thống lĩnh một dãi đất thuộc tỉnh Hà Nam và Sơn Tây bây giờ. Đến đời vua thứ 8
là Bàn Canh dời đô về đất Ân, nên còn gọi là đời Ân. Dưới đời này thị tộc phụ hệ,
định canh, mục súc, tằm tang và chế độ tư hữu bắt đầu phát triển. Bộ tộc Ân rất
hiếu chiến, giao tranh luôn với các bộ tộc khác để chiếm thêm đất đai. Quân địch
bại trận bị bắt làm nô lệ, và còn dùng làm vật hy sinh để tế thần nữa.Vào năm
1930, trong một cuộc đào xới khảo sát tại nhiều cổ mộ ở đất Ân (Anyang), kinh đô
đời nhà Thương, người ta tìm thấy có nhiều hài cốt của tộc phi Mông Cổ (có
nghĩa là gốc caucasian) lẫn lộn.
Đến đời Chu (Chou hay Zhou: 1059 - 221 trước Công Nguyên) thì ngay sau khi
diệt được vua Trụ của nhà Thương, Vũ vương liền đày một số tộc Miêu lên vùng
biên cương Cam Túc, tịch thu hết ruộng đất của họ. Nhà Chu còn bắt họ canh tác
dưới sự kiểm soát của các đội biên phòng, nhưng người Miêu, quen sống tự do bỏ
trốn vào rừng và bắt đầu cuộc sống kham khổ của miền núi. Đến thế kỷ thứ 7
trước Công Nguyên, Miêu tộc kết hợp với các rợ khác như Tây Nhung, Khuyển
Nhung, Rong và Di ở lưu vực sông Vị nổi lên đánh phá các trú phòng của quân
nhà Chu. Nhánh tộc Miêu này về sau không còn nghe nói đến trong sử Trung
quốc. Có truyền thuyết cho rằng một phần đã bị đồng hóa trước Công Nguyên, và
một phần theo giòng sông Vệ vào vùng Tứ Xuyên, rồi trốn vào Tây Tạng yên sống
trong chốn thâm sơn cùng cốc.
Số tộc Miêu ở nội địa cũng bị đàn áp không kém bởi quan lại nhà Chu, do đó mà
họ luôn nổi dậy. Năm 826 trước Công Nguyên, Miêu tộc bị thảm bại phải tẩu táng
khắp phương; một số chạy đến bờ biển theo thuyền xuôi vào biển Nam, một số
đến Quảng Tây, Hồ Nam; số lớn di tản vào vùng thượng du Tứ Xuyên và Quý
Châu, xa khỏi vùng kiềm chế của nhà Chu.
9
Ấy vậy mà năm 770 trước Công Nguyên, U-vương (vợ là Bao Tự) đã bị rợ
Khuyển Nhung tấn công vào kinh đô giết chết. Con là Bình Vương phải dời đô từ
Cảo Kinh (Tây đô) về Lạc Dương (tức Đông Đô), nên sử gọi là Đông Chu.
Tiếp sau đó, nước Trung Quốc bị loạn lạc Xuân Thu (Chun-Qiu: 722 - 481 trước
Công Nguyên), rồi Chiến quốc (453 - 221 trước Công Nguyên.), số phận Miêu tộc
không nghe nhắc đến trong giai đoạn này của sử Trung Quốc. Cùng thời, ở nước
Văn Lang khoảng 275 trước Công Nguyên, Thục Phán dành được ngôi từ Hùng
Vương thứ 18 và xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu là Âu Lạc, xây thành
Cổ Loa.
Mãi đến đời Tần (Ch'in hay Qin: 221 - 206 trước Công Nguyên), sau khi nhất
thống Trung Quốc Tần Thủy Hoàng dời đô về Hàm Dương, quyết tâm đè bẹp các
cuộc nổi loạn, rồi xây Vạn Lý Trường Thành để ngăn cản sự xâm lăng của rợ
phương Bắc. Tần Thủy Hoàng đã ra lệnh cho tướng Đồ Thư đánh chiếm các xứ
Bách Việt ở phương Nam (khoảng các tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông và Quảng Tây
bây giờ), rồi cho di dân hơn 50 vạn người đến khai khẩn, đặt quan úy quận Nam
Hải là Triệu Đà cai quản. An Dương Vương xin thần phục nhà Tần.
Khi Trung Quốc lâm cảnh loạn lạc với Lưu Bang (Hán) và Hạng Võ (Sở) tranh
hùng thì năm 208 trước Công Nguyên, Triệu Đà đánh chiếm nước Âu lạc, lập ra
nước Nam Việt (gồm Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận).
Khi nhà Hán tiếp ngôi (206 trước CN - 220 Công Nguyên), nhờ yên ổn với các
rợ, họ đã chú tâm mở rộng bờ cõi thêm. Đời Vũ Đế (134 - 88 trước Công
Nguyên), quân Hán đã đánh chiếm Triều Tiên và chia ra làm 4 quận. Năm 111
trước Công Nguyên lại sai Lộ Bác Đức chiếm nước Nam Việt, đổi thành Giao Chỉ
bộ chia ra làm 9 quận. Quân Hán còn chiếm các đất của rợ Di, phía Tây Nam như
Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên bây giờ, trong đó có Miêu tộc ở Quảng Tây.
Năm 41 vua Quang Vũ nhà Đông Hán lại sai tướng Mã Viện (Ma-yuan) sang đánh
10
dẹp cuộc nổi loạn của Hai Bà Trưng ở quận Giao Chỉ, rồi dựng cột đồng ở biên
giới. Hai mươi hai năm sau, quân Hán mở thêm một trận càn quét cuộc nổi loạn
của Miêu tộc ở phía nam Hồ Nam, và tướng già Mã Viện đã chết cùng với trên 2
vạn quân vì bệnh ôn dịch trong khi hành quân.
Nhà Đông Hán đã trả thù rất khốc liệt bằng cách tàn sát mọi dân lành, cướp bóc
và đốt phá các làng mạc người Miêu trong vùng liên tục tròn 3 năm cho đến đời
Chiêu Đế mới nới lỏng, nhưng đã không tiêu diệt được tinh thần tự cường của dân
tộc Miêu.
Đến thời Tam Quốc (Ngụy-Thục-Ngô) thì người Miêu lại lớn mạnh và làm chủ
phần lớn đất Hồ Nam và Quý Châu, lại còn có ảnh hưởng đến tận mạn Nam của
Hồ Bắc, rồi theo sông Hán đến tận mạn bắc. Họ còn cố quay về chốn cũ ở Hà
Nam, Sơn Tây và lan đến phía đông An Huy.
Sau đời Tấn (Chin hay Jin: 265 - 316) thì nước Trung Quốc suy yếu, rơi vào hỗn
loạn của thời Nam Bắc triều (Nan Bei) (hay còn gọi là Lục triều: 317 - 589) thì
khoảng từ 403 đến 561 đã có đến hơn 40 lần người Miêu nổi dậy để đòi độc lập,
cùng với những sắc tộc khác ở khắp nơi mà sử Trung Quốc gọi là Loạn Ngũ Hồ
(Hung Nô, Yết, Tiên Ti, Chi, Khương).
Đến giữa thế kỷ thứ 6, người Miêu đã thiết lập được một vương quốc tạm bợ khá
rộng ở phía Tây Trung Quốc kéo dài từ Hà Nam, qua Hồ Bắc, Hồ Nam xuống đến
Quảng Tây, có thể lẫn lộn biên cương giữa các nước Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc
Chu hoặc Bắc Tề luôn thay đổi. Họ được các thế lực tranh giành giữa Nam và Bắc
triều mua chuộc, lôi kéo, nên một số danh sĩ được tiến cử vào các triều. Nhưng
thời gian vui hưởng này không kéo dài được lâu vì đến khi Lý Uyên thiết lập nhà
Đường (Tang: 618 - 907) sau khi dẹp nhà Tùy (Sui: 589 - 618), thì bắt đầu đánh
dẹp và thu hồi đất đai đã mất vào tay các rợ, trong đó có dân tộc Miêu. Đổi lại,
nhà Đường cho các vùng ấy được tự trị và phải đóng thuế cho triều đình.
11
Đến năm 907, Trung Quốc lại bị loạn lạc với thời kỳ Ngũ đại (Lương, Đường,
Tấn, Hán, Chu) và Thập quốc (907 - 960), nhà Hậu Chu cố đánh lấy vương quốc
Miêu. Đến khi nhà Tống tái thống nhất Trung quốc (Sung: 960-1279), lại cử binh
giành lại các đất vùng Hồ Bắc và Hồ Nam. Trong các cuộc giao tranh toàn bộ
vương triều của Miêu bị tiêu diệt, và đây cũng là bước ngoặc lịch sử chấm dứt thời
vàng son của bộ tộc Miêu.
Truyền kỳ còn được kể lại giữa người Miêu về những ngày bi thảm đó như sau:
Hang Tchu là vua của Miêu tộc lúc bấy giờ, đã già và mệt mỏi vì chiến trận, giàn
quân kháng cự quân Tống. Con gái duy nhất của Hang Tchu là Ngao Shing cũng
cùng xông pha trận tuyến với cha. Nàng không những xinh đẹp mà còn học được
phép lạ với lá cờ thần bí, khi phất lên là bảo tố kéo đến phá tan quân Tống.
Tướng nhà Tống là Tỷ Thanh (Ty Ching) cầu hòa với điều kiện là Miêu tộc phải
trao lá cờ phép cho họ. Triều thần người Miêu họp bàn và sợ rằng người Hoa bày
quỉ kế, nên trao một lá cờ giả. Tỷ Thanh vội dâng lá cờ cho vua Tống, nhưng khi
thử với lửa thì biết là không phải lá cờ thật. Tỷ Thanh liền bị bỏ ngục và kết án tử
hình nhưng nhờ triều thần can gián cho đoái công chuộc tội. Y liền quay lại đất Hồ
giả làm môi giới để cầu hôn Ngao Shing cho thái tử nhà Tống. Vua Miêu chấp
thuận nhưng Ngao Shing thì nhất định cự tuyệt, liền bị vua cha bạc đãi đến chết.
Nàng qua đời thì cờ phép cũng trở nên vô hiệu cho nên Tỷ Thanh mới có thể tiêu
diệt được triều thần Hang Tchu.
Người Miêu lại phải chạy trốn vào vùng Quý Châu và Tứ Xuyên, số khác lại tẩu
tán xuống Quảng Đông và Quảng Tây, trở thành những bộ lạc thiểu số. Quan cai
trị người Hoa lại còn chia rẽ họ bằng cách phân nhóm và buộc họ phải ăn mặc y
phục có màu khác nhau, và từ đó mà ta biết đến nhóm Miêu đen, trắng, hoa, đỏ và
xanh. Mỗi nhóm lại cử lên một tộc trưởng, một chức vụ như là tiểu vương
(kiatong). Tuy vậy họ vẫn luôn tìm cách liên kết với nhau khi cần chống lại kẻ thù
chung là Hoa tộc.
12
Có một bài phóng sự trong nước mới đây mô tả về trang phục của phụ nữ Mông-
Miêu một cách khá thơ mộng, xin được trích dẫn nguyên văn như sau: "Họ cư trú
trên các thung lũng của miền núi phía Bắc (Việt Nam). Leo ngược lên các triền núi
dốc, ở độ cao một ngàn ta bắt gặp những bản làng của người Miêu, bốn mùa mây
mù, sương phủ. Bao quanh những bản làng là những vạt rừng thưa, những trảng
cỏ, những dãy đồi trọc trơ sỏi đá, với những con đường mòn vừa đủ cho người địu
gùi, cho ngựa thồ nằm vắt mình qua các triền núi cheo leo.Giữa khung cảnh tịch
mịch hoang vu ấy, du khách bắt gặp những cô gái, chàng trai người Miêu đi chợ,
bộ trang phục nữ với váy, áo, khăn, vòng, ô sặc sở, lóng lánh vòng khuyên, nổi bật
lên giữa cái thâm u của rừng núi, làm cho cảnh sắc thiên nhiên bỗng sinh động và
ấm áp. Hay giữa các phiên chợ vùng cao, bên cạnh các cô gái Thái, Tày, Nùng,
Dao vẫn nổi bật sắc mầu của các cô gái Miêu: Đây là cô gái Miêu Trắng mặc
váy trắng tuyền, tay áo ghép nhiều mầu, yếm hoa phô sau gáy, kia là các cô gái
Miêu Hoa, váy xếp nếp xòa đủ 12 màu, áo cài khuy nách, có nẹp hoa ở vai, ở
ngực, còn mang trên mình khăn và túi. Rồi phải kể đến cô gái Miêu Đen quấn
vành khăn nhiều nếp nhô cao, váy hoa xúng xính, khuyên tai, vành bạc đủ bộ, làm
mỗi bước đi rung lên thành nhạc, còn cô gái Miêu Lai trong tiết rời se lạnh sặc sỡ
một mầu đỏ thắm của y phục truyền thống."
Trở lại câu chuyện gốc gác người Miêu ở Trung Quốc thì sau khi bị phân tán
vào các vùng cao nguyên và rừng rậm, người Miêu tạm sống yên ổn bởi nhà Tống
bận rộn trong việc chấn hưng nền kinh tế và giao thương của Trung Quốc mà xao
lãng quân sự đưa đến việc rợ Khế-đơn (Kitans) lập nên nước Liêu (Liao) ở mạn
Tây bắc và rợ Tiên Ti (Tartars) lập nên nước Tây Hạ (Western Xia) ở vùng Giang
Bắc, Ninh Hạ và Cam Túc. Từ đó nước Trung Quốc lại can qua giữa 3 nước.
Những năm về sau ở nước Liêu, Mãn tộc bắt đầu hưng thịnh tách ra lập ra nước
Đại Kim (Juchen Chin hay Kin: 1115 - 1234). Tống Hy Tông liên kết với Đại Kim
để diệt Liêu, rồi nhà Tống quá suy yếu lại phải triều cống vua Kim. Trong khi ấy,
giống Mông Cổ phát triển hùng mạnh với Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan) khởi
13
binh chiếm nữa phía bắc nước Kim vào năm 1215 rồi quay sang chiếm trọn Trung
Á và tàn phá vùng Nga-la-tư. Khi quay về đông phương lại diệt luôn nước Tây Hạ
vào năm 1224, chọn Yên Kinh (Yenkin: về sau trở thành Bắc Kinh ngày nay) làm
kinh đô, xưng làm Nguyên Thái Tổ.
Sau khi Thành Cát Tư Hãn mất năm 1227, thì con là Oa Khoát Đài hay Ogadai
thôn tính trọn nước Kim năm 1234 và khủng bố đến tận vùng Trung Âu. Sau khi
Oa Khoát Đài mất, Mông Kha (Mongke) lên ngôi một mặt tiếp tục tàn phá châu
Âu và mặt khác sai cháu cuả Oa Khoát Đài là Hố Tất Liệt (Kublai Khan) cử binh
đánh và diệt nước Đại Lý, hậu thân của nưuớc Nam chiếu (ở vùng Vân Nam bây
giờ) vào năm 1253, rồi tiến đánh nhà Nam Tống và nước An Nam. Khi Hốt Tất
Liệt đánh vào Quý Châu, Tứ Xuyên, quân Mông Cổ đã không tiến sâu vào vùng
cao nguyên cho nên Miêu tộc không bị sát hại nhiều.
Khoảng từ năm 1267 đến 1279 Hốt Tất Liệt, diệt được nhà Tống vừa khi Mông
Kha mất, liền lên ngôi xưng hiệu là Nguyên Thế Tổ, lập nên nhà Nguyên (Yuan:
1279 - 1368) ở Trung Quốc. Vua Tống Cung Đế và các đại thần phải nhảy xuống
biển tự vận.
Đến năm 1368 Châu Nguyên Chương (Zhu Yuanzhang), vốn là một nhà sư nổi
lên đánh đuổi được quân Mông Cổ lập nên nhà Minh (Ming: 1368 - 1644). Nhà
Minh lại nhắm vào Miến Điện như là cửa ngõ buôn bán với vùng Đông Nam Á,
nên quyết bình định vùng Vân Nam. Trước tiên họ đặt ra hệ thống thổ ty (Tu Si
system) và ưu đãi nhóm người Lô-lô mà đàn áp người Miêu đẫn đến việc người
Miêu thường xuyên nổi dậy. Năm 1459 quan quân nhà Minh đã thiết lập hơn 2
ngàn đồn biên phòng tại Quý Châu, Tứ Xuyên, để từ đó liên tục mở các cuộc hành
quân đánh phá làng mạc và căn cứ địa của người Miêu, và tàn sát đến hơn 40 ngàn
người.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét