Trung Đông để bồ túc về ngôn ngữ, văn học, nghiên cứu phong tục tập quán cũng như các môn
khoa học, nghệ thuật và tôn giáo các dân tộc phương Đông.
Trong suốt mười năm, từ 1670 đến 1680, chàng thanh niên chu du qua các nước Xyri, Ba Tư,
Thổ Nhĩ Kỳ, lưu trú một thời gian dài tại các thành phố Alep, Ispahan và Constantinop (nay là
Istanbun) để học thêm ngôn ngữ văn học cũng như khẩu ngữ của người A Rập, người Ba Tư và
người Thổ Nhĩ Kỳ. Thời gian lưu học ở Alep, mặc dù chưa đến hai mươi tuổi ông đã viết trực
tiếp bằng tiếng A Rập một cuốn sách về tiểu sử vua Louis XIV và chiến dịch đánh Hà Lan do
nhà vua ấy tiến hành. Khi nước Pháp lần đầu thiết lập quan hệ ngoại giao với đế quốc ôtôman và
cử đại sứ đặc mệnh toàn quyền đến Thổ Nhĩ Kỳ, De La Croix làm trợ lý cho hai đại sứ liên tiếp.
Đọc các nhật ký và ghi chép ông để lại, người ta thấy ông đã đặt chân đến nhiều thành phố và
vùng nông thôn sau này sẽ được nhà văn miêu tả khá chân thực sinh hoạt của người dân trong bộ
Nghìn lẻ một ngày. Có thể kể: Alep, Batđa, Điabêkia, Mu xen (hoặc Mu xun), Ispahan,
Constantinop, Smiêc, Livuanơ, rồi thời gian sau Maroc, Algiê, Cai ro Là người ham mê sưu
tầm sách cổ Đông phương, ông mang về làm giàu cho Thư viện Hoàng gia Pháp rất nhiều bản
sách in và sách chép tay bằng tiếng A Rập, Ba Tư hoặc Thổ Nhĩ Kỳ.
Sau đây là một đoạn nhật ký của chàng trai hiếu học về cuộc gặp gỡ tu sĩ Mocles ở Ispahan-
Mocles là người gần bốn mươi năm sau được ông giới thiệu với độc giả Pháp là tác giả bộ Nghìn
lẻ một ngày bằng tiếng Ba Tư: "Thời gian này tôi còn phải học thêm một cuốn sách rất khó về
thần học nhan đề là Mesnevi gồm ít nhất chín vạn câu văn vần. Tôi muốn tìm một người thuộc
lòng bộ sách ấy để học, nhưng vì thiếu tiền không thể tìm ra, đành phải xin gặp vị Tu sĩ Bề trên
dòng tu Mewlevis. Nhờ một người bạn giới thiệu, tôi được gặp vị tu sĩ ấy. Tôi vừa ngỏ lời chúc
tụng xong, ông đã đồng ý cho phép tôi trong khoảng thời gian . năm, sáu tháng tới, được nhiều
lần gặp ông để ông dạy bảo cho. Tôi học thành công cuốn sách ấy. Vị tu sĩ ấy đâu phải là người
sẽ đồng ý nhận tiền công, tôi tặng ông ba cái âu sứ lớn, và được ông vui lòng nhận cho. Tên ông
là tu sĩ Mocles. Thời gian này ông đang cùng mười hai môn đệ chuẩn bị sáng lập một giáo phái
mới "
Cuối năm 1680, trớ về Paris, De La Croix được cứ vào chức vụ làm thư ký phiên dịch cho nhà
vua về các ngôn ngữ Trung Đông, mà thân sinh ông vẫn giữ từ trước. Năm 1692, được phong
làm giáo sư thực thụ dạy ngôn ngữ và văn học A Rập ở Đại học Hoàng gia, đồng thời vẫn tiếp
tục làm thư ký- phiên dịch cho Triều đình. ông tập trung công sức vào việc trước tác và phiên
dịch sách tiếng A Rập, Ba Tử, Thổ Nhĩ Kỳ và Armêni. ông để lại một thư mục dày dặn về các
công trình của mình.
Việc đầu tiên của F.P. De La Croix về trước tác là chỉnh lý và cho xuất bản cuốn Lịch sử Thành
Cát Tu Hãn mà người cha khi qua đời chưa kịp hoàn thành. Sau đấy, xuất bản cuốn Truyện bà
hoàng Ba Tư và các vị tể tướng, gồm bốn mươi truyện kể gốc Thổ Nhĩ Kỳ (1707) và bộ Nghìn lẻ
một ngày (1710-1712). Sau khi ông qua đời, con trai ông cho xuất bản cuốn Chuyện Timua-Bec
(còn gọi là Tamerlan) do ông biên soạn. Thật ra, số lượng những tác phẩm đã được in của De La
Croix chẳng nghĩa lý so với toàn bộ các công trình hết sức đồ sộ gồm trước tác, biên dịch, ghi
chép, nhật ký rất cần thiết cho những ai thời ấy muốn đi sâu nghiên cứu phương Đông. Cuối bộ
sách Thế kỷ của Louis XIV, phụ lục về Danh mục các nhà văn Pháp dưới triều đại của ông vua
ấy, nhà văn và triết gia Voltaire dành cho De La Croix những dòng sau: "ông là một trong những
người được vị thủ tướng vĩ đại Colbert khuyến khích và thưởng công xứng đáng. Vua Louis XIV
đã cử ông sang Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Tư từ năm mười sáu tuổi để học các ngôn ngừ phương Đông.
Có mấy ai ngờ ông đã biên soạn một cuốn sách bằng tiếng A Rập được đánh giá rất cao ở
phương Đông về cuộc đời vua Louis XIV~ ông còn viết cuốn Lịch sử Thành Cát Tư Hãn và Lịch
sứ Tamerlan, dựa trên các tác gia A Rập thời cổ, và nhiều cuốn sách có ích khác. Nhưng bản
dịch Nghìn lẻ một ngày là cuốn sách có nhiều người đọc hơn cả. Chẳng là: Con người là băng
giá trước sự thận Nllưng lại là lửa hồng trước những điều tưởng tượng ra (La Fontaine, IX, 6)"
Sau nhiều chục năm nghiên cứu, nhà Đông phương học Paul Sebag không ngần ngại gọi tác giả
Nghìn lẻ một ngày là một nhà bác học.
ĐẠO HỒI, A RẬP, BA TƯ, THỔ NHĨ KỲ
5
Người đọc Nghìn lẻ một ngày cũng như Nghìn lẻ mộtđêm thường gặp những khái niệm lịch sử,
địa lý, tôn giáo Trên thực tế, đất nước của các vị hoàng đế Ba Tư trong truyện không phải nước
Ba Tư như chúng ta thường hiếu, càng không đồng nhất với Cộng hoà Hồi giáo Iran ngày nay.
Cũng như vậy, nước Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại chỉ là một phần nhỏ còn lại của đế quốc ôtôman do các
sultan( Sultan : Danh hiệu của hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ (PQ)) ngày xưa trị vì. Và giữa đế quốc Ba
Tư huyền thoại và đế quốc ôtôman Thổ Nhĩ Kỳ có khoảng cách chừng. . . hai ngàn năm lịch sử.
Ba Tư là một trong những dân tộc và quốc gia cổ nhất hành tinh. Nước Ba Tư thời thượng cổ có
một nền văn minh tồn tại gần hai nghìn năm, từ khoảng năm 2500 đến năm 640 trước kỷ nguyên
công giáo (quen gọi là công nguyên- C.N.). Đấy là nền văn minh êlamit, di sản văn hoá lâu đời
nhất của người Ba Tư, dù trên thực tế những người tạo dựng nên nền văn minh ấy không phải tổ
tiên đích thực của người Iran hiện nay. Từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ IV trước C.N. là đế
quốc Ba Tư của người Mêdet và người Acsênêit. Dưới triều các hoàng đế Xuân và Đariut, đế
quốc Ba Tư trải rộng khắp vùng Trung Cận Đông. Phía Nam, từ phần đất dọc bờ nam Địa trung
hải, qua toàn bộ lưu vực sông Nin, phần bắc lục địa A Rập, đến vùng Lưỡng Hà, rồi đi dọc theo
vịnh Ba Tư đến tận toàn bộ lưu vực sông Inđut của ân Độ. Phía Bắc từ Maxêđoan thuộc châu âu,
theo bờ nam Hắc Hải tới bờ nam biển Caspi, vươn sang vùng nam biển A ran và đi quá kinh đô
Xamacan (nay thuộc Uzbêkistan) rất xa về phía đông.
Với cuộc chinh phục của vua Alêchxan Đại đế, đế quốc Ba Tư bước vào thời kỳ Hi Lạp hoá,
chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn minh cổ đại Hy Lạp. Dĩ nhiên nền văn minh Hy Lạp gặp
sức đối kháng mãnh liệt của người Ba Tư mong muốn trở lại thời hoàng kim của mình thời
trước. Đế quốc Ba Tư sau cùng là triều đại các hoàng đế thuộc dòng Xaxanit (từ thế kỷ III đến
thế kỷ Vi sau C.N.).
Nhà sử học Philippe Gignoux viết về thời kỳ này như sau: "Dưới triều đại của đại đế Xosro
Anusiavan (531-579) và cháu ông, đại đế Xosro Paviz t591-628), sự huy hoàng tráng lệ của các
triều đình Ba Tư đạt tới đỉnh cao và lưu vào huyền thoại cho đến ngày nay. Hoàng đế Anusiavan
là một điển hình nhà vua công minh, hào hiệp theo truyền thống A Rập. ông duy trì được hòa
bình, tiến hành nhiều cuộc cải cách, xây dựng nhiều thành phố. Riêng vùng Xtêsiphon đã là một
tổng thể gồm bảy thành phố liên hoàn. Đây là một thời kỳ rực rỡ của văn học và triết học. Giới
tăng lữ nắm trong tay toàn bộ nền giáo dục. ảnh hưởng của Hy Lạp về y học, của ấn Độ về văn
học rất đậm nét"[( Bách khoa toàn thư Universalis, 1996, tập XV/I, trang 896.)]
Với sự ra đời của đạo Hồi do Mahomêt sáng lập và thế kỷ thứ VII, đặc biệt sau các cuộc chinh
phục của các Calip (hoàng đế và thống lĩnh tín đồ Hồi giáo) kế vị Mahômêt, đế quốc Ba Tư bước
vào thời kỳ Hồi giáo hóa. Kinh đô được chuyển sang Batđa nay là thủ đô trắc. Xuất hiện một nền
văn minh mới, hệ quả giao thoa giữa hai nền văn minh lớn: Ba Tư và A Rập (còn có tên Văn
minh A Rập- Ba Tư). Chói lọi nhất (và cũng nhiều rối rắm nhất) thời kỳ này là vương triều của
hoàng đế Harun-an-Rasit (766-809), một nhân vật lịch sử xuất hiện thường xuyên trong hai bộ
Nghìn lẻ một đêm và Nghìn lẻ một ngày. Dưới triều đại của ông, kinh thành Batđa được coi như
một trung tâm chính trị văn hoá huy hoàng tráng lệ nhất thời bấy giờ.
Đế chế Calip suy đồi và tan rã trước cuộc xâm lược và đô hộ của người Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy
nhiên, thế kỷ XI-XII vẫn còn là một thời đại hoàng kim của nước Ba Tư Hồi giáo về chính trị,
văn học, triết học, nghệ thuật, kiến trúc Các cuộc xâm lăng liên tiếp của người Mông Cổ
(Thành Cát Tư Hãn), người Ti mua (Tamerlan), người Tuôcmen là những biến động cự kỳ lớn,
vừa làm xáo trộn vừa làm phong phú thêm nền văn hóa Ba Tư Hồi giáo vốn đã rất đặc sắc. Đế
quốc ôtôman của người Thổ Nhĩ Kỳ manh nha từ thế kỷ XII, hình thành vào thế kỷ XV và đạt tới
cực thịnh và thế kỷ XV-XVI cũng hết sức rộng lớn. Biên giới phía nam của nó trải dài suốt cả
vùng Bắc Phi sang tận vịnh Ba Tư.
Phía bắc, tất cả vùng Lường Hà sang một phần các nước Đông âu. Qua nhiều bước thăng trầm
và đổi thay địa giới, đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ tồn tại mãi đến năm 1923 mới chấm dứt, và thay bằng
sự ra đời của nước Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại. Khoảng đầu thế kỷ XVIII, thời Antoine Galland bắt tay
dịch bộ Nghìn lẻ một đêm và F.P. De La Croix soạn bộ Nghìn lẻ một ngày, đế quốc Thổ tuy đã
qua thời cực thịnh vẫn còn là một lực lượng hùng cường và đầy bí ẩn trước con mắt phương Tây.
Những truyện có nguồn gốc Thổ Nhĩ Kỳ trong hai bộ truyện nói trên đã hình thành rất sớm, có
6
thể vào thời kỳ sơ khai hoặc cực thịnh của đế quốc ôtôman.
Đạo Hồi do Mahomêt (còn gọi là Môhamêt hoặc Muhammat 570-632) sáng lập vào thế kỷ thứ
VII, và ngày nay ai cũng biết đã trở thành một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới. Mahomêt
được người Hồi giáo suy tôn là đấng Đại tiên tri. Nền tảng là đạo Hồi là Kinh Co ran, tương
truyền đấy là tập hợp những lời giáo huấn của Mahomêt do các môn đệ của ông ghi chép lại.
Những lời giáo huấn ấy, bản thân Mahomêt cho rằng được Thượng đế trực tiếp truyền đạt cho
ông.
Đặc trưng nổi bật của đạo Hồi là nhất thần giáo (tin rằng chỉ có một Đấng Sáng Thế duy nhất,
tiếng A Rập là Alah- Thượng đế tối cao) đối lập với đa thần giáo được lưu truyền rộng rãi hồi
bấy giờ. Người theo đạo Hồi phải thề chỉ tin vào Alah và Mahomêt, có bổn phận cầu nguyện
hằng ngày, nhịn ăn ban ngày trong tháng Ramadan, ai có điều kiện về kinh tế phải hành hương
về thánh địa Mecca nơi sinh ra Đấng đại tiên tri ít nhất một lần trong đời.
Theo giáo lý đạo Hồi, phụ nữ không có quyền tự do cá nhân. Đàn bà hoàn toàn phụ thuộc vào
đàn ông, trong khi đàn ông có quyền lấy đến bốn vợ chính thức. . . Những ràng buộc truyền
thống ấy càng làm bật rõ những đòi hỏi về "nữ quyền" trong hai bộ truyện, đặc biệt trong bộ
Nghìn lẻ một ngày. Nhiều chuyện kể trong hai bộ truyện nói trên ra đời vào thời kỳ đạo Hồi bắt
đầu bành trướng mạnh mẽ, dần dần lấn át và thay chân các tôn giáo đa thần đã có cho đến lúc
bấy giờ. Rất dễ hiểu tại sao độc giả sẽ có nhiều dịp chứng kiến các phép thần kỳ của Đấng đại
tiên tri Mahômêt không ngoài mục đích cổ vũ nhân dân từ bỏ các tín ngưỡng khác và cùng nhau
quy theo đạo Hồi. Nhiều nhân vật trong các truyện cổ luôn miệng nhấn mạnh niên đời chỉ có một
đấng tối cao, ấy là Thượng đế" là do vậy. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, khuynh hướng "tuyên
truyền" cho đạo Hồi rất rõ nét trong nhiều truyện cổ
CẤU TRÚC NGHÌN LẺ MỘT NGÀY
Như đã nói, bộ Nghìn lẻ một ngày bắt đầu bằng một truyện dẫn. Nàng công chúa nước
Casơmia, sau một cơn ác mộng, đâm ra thù hận đàn ông và dứt khoát không chịu lấy chồng. Bà
nhũ mẫu Xutlumêmê hằng ngày kể cho nàng nghe nhiều câu chuyện nhằm mục đích chữa cho
nàng khỏi sự ám ảnh bởi định kiến sâu sắc. Qua các truyện kể, bà cố thuyết phục nàng công
chúa, trên đời không thiếu những người đàn ông hào hiệp và chung thủy, trước sau rồi nàng cũng
sẽ gặp được một chàng trai yêu nàng tha thiết, để nàng yêu lại hết lòng, không sợ bị người ấy lừa
dối. Chuyện kể từng đoạn, khớp với thời gian nàng công chúa ở trong nhà tắm, và sao cho thật
lôi cuốn, dừng lại ở chỗ gay cấn nhất, để những người nghe không bỏ dở chừng. Sau đợt "tâm lý
trị liệu" dài suốt một nghìn lẻ một ngày, nàng công chúa đỏng đảnh và tàn nhẫn của chúng ta
được giải thoát khỏi cơn trầm uất vô căn cứ, rồi đồng ý kết hôn với chàng hoàng tử trẻ tuổi, đẹp
trai nước Ba Tư.
Độc giả không thể không liên hệ công chúa nước Casơmia với tiểu thư Sêhêrazat trong Nghìn
lẻ một đêm. Cô gái trẻ ấy buộc phải nghĩ ra những truyện thật hay, thật hấp dẫn để tránh cái chết
đang chờ, để được sống thêm một ngày và kể tiếp câu chuyện dang dở. Nỗi lo trước hết cho tính
mạng của mình là một động lực kích thích trí tưởng tượng vốn dĩ phong phú của cô gái chưa đến
tuổi đôi mươi. Trường hợp bà nhũ mẫu Xutlumêmê có hơi khác.
Động lực của bà là tình thương đối với cô con gái bà cho bú từ ngày thới sinh bằng dòng sữa
của mình. Bà biết rõ cô gái quá nhạy cảm này chỉ mắc bệnh tâm lý và tinh thần. chứ chẳng ốm
đau gì về thể chất. Chủ đề mọi câu chuyện kể của bà tập trung vào một cái đích, và cuối cùng
phát huy hiệu lực thần kỳ đúng như bà tiên đoán.
Ngay trong Lời tựa của mình, F.P. De La Croix đã so sánh ý đồ của hai người kể chuyện. ông
không mấy thích nàng Sêhêrazat bởi cho nàng kể chuyện nhằm giữ mạng sống của mình hơn tìm
cách thuyết phục bạo chúa Saria, giúp ông nhận ra các đức tính của người phụ nữ. ông nói rõ
mình quý bà nhũ mẫu hơn do tính nhân văn đậm đà ở bà. Thật ra, không hoàn toàn như vậy. Tác
động của các truyện cổ thông qua những tình tiết phong phú và bất ngờ không nhất thiết lúc nào
cũng bộc lộ cho người nghe thấy rõ mục đích bên trong của chuyện. Dù sao, hiệu quả hai người
kể chuyện mang lại đều tốt đẹp như nhau. Nhiều nhà nghiên cứu còn chứng minh việc nàng công
chúa nước Casơmia qua khỏi cơn stress là Có Cơ sở y học và lịch sử. Thời trung cổ ở Ba Tư vốn
lưu truyền khá rộng rãi cách chữa bệnh bằng tâm lý, từ nền y học cổ truyền ấn Độ truyền sang.
7
Cấu trúc của bộ Nghìn lẻ một đêm dường như có phần chặt chẽ và nhất quán hơn bộ Nghìn lẻ
một ngày. Các truyện kể xen kẽ nhau rất biến hoá, đưa người nghe từ thành phố Cai ro bên bờ
sông Nín và kinh đô Batđa bên dòng Tigris trên vùng châu thổ phì nhiêu giữa hai con sông
(Lường Hà) ngược lên sa mạc khô cằn Trung á, sang lục địa Trung Hoa mênh mông và bờ biển
Inđônêxia cách trở, có khi xuống tận âm ti. Tựu trung có thể phân thành ba chùm rõ rệt:
Chùm đầu gồm các truyện Abucaxem Basri, Ruvansat và Sêhêristani, tể tướng Caversa, vua
Tây Tạng và công chúa Nai man, Cướp và Đilara, hoàng tử Fađala, Calap và Turanđoc. Những
chuyện ấy xen kẽ vào nhau và sau mỗi truyện những người nghe có cuộc trao đổi về những đức
tính cũng như khiếm khuyết của các nhân vật.
Chùm thứ hai có các truyện vua Bêrêtđin-lôlô và tể tướng, Antamuc và Zêlica, Sêyp-en-muluc
và Bêđy-an- Giê man, Malec và Sirin, Nhà vua không phiền não, Avixen, cùng hai Chuyến phiêu
lưu của người du hành vĩ đại Abunphauari. Chùm này xoay quanh ba nhân vật trung tâm; quốc
vương Đamat cùng vị tể tướng và quan đại thần tin cẩn của mình. Quây quần chung quanh là
nhiều nhân vật khác họ gặp trên đời. Chùm truyện này ngoài ý nhấn mạnh tính thủy chung trong
tình yêu, còn có một ý tứ quán xuyến nữa là, người đời chẳng có ai đạt được hạnh phúc lâu dài
và trọn vẹn bao giờ.
Chùm thứ ba gồm các truyện hai anh em thần linh Ađi và Đam, Nerisatđôlê, Abđeraman và
Zainep, và truyện nàng Repxima. Chùm truyện này được trình bày dưới dạng mấy nhân vật kể
chuyện hầu hoàng đế Harun-an-Rasit và nàng cung phi sủng ái của ông.
Các truyện trong Nghìn lẻ một ngày đều toát lên tính nhất quán về mục tiêu mà tác giả thông qua
người dẫn chuyện, bà nhũ mẫu Xutlumêmê, đặt ra từ đầu.
Các câu chuyện được phân ra nhiều ngày, thường ngắt đoạn ở nơi đang hấp dẫn, buộc người
nghe phải nín thở chờ "hạ hồi phân giải". Cũng như số đêm trong bộ Nghìn lẻ một đêm còn lâu
mới đi đến số nghìn, toàn bộ Nghìn lẻ một ngày chỉ có hai trăm ba mươi hai ngày. Như F.P. De
La Croix đã thưa trước và giải thích lý do ở đầu tập cuối cùng của bộ truyện, người kể sẽ từ ngày
190 đột ngột chuyển sang ngày 960, để mọi truyện kịp kết thúc đúng ngày 1001. Cũng có thể suy
đoán thêm, nếu De La Croix không "bận trăm công nghìn việc khác" và nhất là không có cái chết
khá đột ngột của nàng quận chúa Marie- Adélaide vào cữ hai mươi sáu xuân xanh, tác giả có thể
sẽ kéo bộ truyện của mình dài gấp đôi, ít nhất thành mười tập, cho tương ứng người anh sinh đôi
Nghìn lẻ một đêm. Điều này người đọc có thể thấy thêm qua việc chia ngày: ở mấy truyện cuối,
nội dung được kề trong một ngày ngắn hơn nhiều so với các truyện đầu trong bộ sách.
Còn có một cách lý giải khác. Cụm từ "nghìn lẻ một" xưa kia cũng như ngày nay không phải
là một con số cụ thể. Nó là một đại lượng nói lên cái nhiều, cái phong phú, đa dạng, lung linh,
huyền áo Bởi vậy chớ nên buồn, bắt bẻ người dịch và người viết sao Nghìn lẻ một đêm thực tế
chỉ có 252 đêm, và Nghìn lẻ một ngày có 232 ngày mà thôi.
HẠNH PHÚC, NHÂN DUYÊN VÀ ĐỊNH MỆNH
Khác với phần lớn các chuyện cổ tích phổ biến ở phương Tây, nhân vật chính trong truyện
thường là trẻ em, hầu hết các nhân vật trong hai bộ Nghìn lẻ một đêm và Nghìn lẻ một ngày là
những chàng trai, cô gái mới bước vào đời Có thể đấy là nhà vua đầy quyền uy hay thương gia
giàu có, công chúa cành vàng lá ngọc hoặc cô thôn nữ thật thà, tất cả đều được trời phú cho trí
thông minh, đức hạnh và lòng dũng cảm. Con gái xinh đẹp tuyệt trần, con trai tuấn tú khôi ngô . .
. không mấy ai không chịu trớ trêu của duyên số. Cuộc sống của bất kỳ ai đều là những chuỗi
ngày xen kẽ hạnh phúc và ưu phiền.
Bất hạnh đâu có chừa một ai. Quốc vương Timuatat bị quân xâm lược đánh đuổi khỏi bờ cõi.
Chàng trai Culup phải trơn khỏi triều đình nơi chàng đang giữ trọng trách bởi bị nhà vua ngờ vực
bất công. Công từ Abuncaxem thừa kế một gia tài giàu có là thế, vì tiêu pha hoang phí chẳng bao
lâu trở thành người bần cùng. Cậu Ha xan bị những người chung vốn làm ăn nửa đêm đang tâm
ném xuống biển cả. Người đẹp Đacđanê đang tuổi lớn đã bị người mẹ độc ác bán cho phường
buôn nô lệ. Vừa lên ngôi báu thay cha, công chúa Nai man bị một âm mưu thoán đạt gạt khỏi
ngai vàng, buộc phải trốn ra nước ngoài. Nàng Repxima đức hạnh nức tiếng gần xa vẫn bị vu oan
cho tội ngoại tình đến nỗi bị chôn sống Như lời nhân vật trong truyện than thở: "Cuộc đời con
người khác nào một cây sậy không ngừng bị lay động trước cơn gió phương bắc lạnh buốt".
8
Hạnh phúc thường đến giữa lúc người ta ít chờ đợi nhất. Truyện nào cũng có hậu. Hoàng từ
Calap khôi phục lại đất nước bị xâm lăng thời vua cha trị vì. Chàng Abuncaxem đang phải ăn xin
sống qua ngày, bỗng dưng gặp một thương gia rất giàu có nhận làm con nuôi và cho kế thừa toàn
bộ gia sản. Chàng Ha xan trong cơn tuyệt vọng, dự định tự kết thúc cuộc đời lại phát hiện một
kho tàng vô giá ngay ở cành cây cổ thụ chàng buộc dây thắt cổ. Từ thân phận nô tì, nàng
Đacđanê trở thành cung phi được sủng ái nhất của hoàng đế Ai Cập. Vào lúc tưởng phải chết tới
nơi, công chúa Zêlica được một ông vua hào hiệp cứu sống. Nhờ bị đắm tàu, trôi dạt vào một
hòn đảo xa lạ, nàng Repxima oan ức mới trở thành nữ hoàng được ngưỡng vọng của đảo quốc.
Trong đời người, hạnh phúc và hoạn nạn kế tục, xen kẽ vào nhau. Khổ tận cam lai, hết lúc gian
nan ngày vui lại đến. Ngược lại, khi hạnh phúc đạt đến cực điểm, hãy coi chừng, tai họa sắp ập
xuống đầu anh đấy. Dù gặp gian nan cùng cực đến đâu, con người vẫn không được phép sa vào
tuyệt vọng. Hãy tin chắc hết ngày mưa trời lại nắng lên thôi. Quan niệm biện chứng ấy về cuộc
sống thường được giải thích dưới góc độ tín ngưỡng: có một đấng tối cao ở đâu đó cầm cân nảy
mực, chuyên ban phúc, họa cho con người. Theo những người Hồi giáo, đấng tối cáo ấy không
thể ai khác Đức Alah.
Không khuôn vào riêng cuộc đời trần tục, ngay cả ở thế giới thần linh, không ai tránh khỏi
hoạ, không ai chỉ gặp phúc. Và dường như mọi sự đã được xếp đặt trước ở chốn thiên tào. Tương
tự câu đầu miệng của người phương Đông: vào sự giai do tiền định- muôn sự đều định trước cả
rồi.
Tuy nhiên, dù tin vào định mệnh, người không được buông mình phó mặc định mệnh. Con người
phải có lòng dũng cảm, dám nghiến răng vượt qua hoạn nạn trong bất cứ trường hợp nào. Niềm
tin giúp con người đứng vững trước sóng gió. Niềm tin ấy dù được nhiều nhân vật trong truyện
giải thích là niềm tin vào Thượng đế, vào Đấng tối cao, chúng ta có thể hiểu thực chất đấy chính
là niềm tin vào cuộc sống, vào sức vượt khó của chính mình. Ai có niềm tin vào cuộc sống, vào
con người, sớm muộn sẽ thoát khỏi tai ương, đi tới hạnh phúc. Chung cuộc, sớm hay muộn
người lành được thưởng công, kẻ ác phải đền tội.
Niềm lạc quan đậm tính nhân văn quán xuyến toàn thể Nghìn lẻ một ngày
TIẾNG SÉT VÀ SÓNG GIÓ TÌNH YÊU
Tình yêu say đắm là chủ đề nổi trội qua bộ Nghìn lẻ một ngày. Tình yêu là nguyên cớ làm nên
hạnh phúc hoặc đưa đến gian truân cho các nhân vật chính trong bộ truyện.
Sắc đẹp người phụ nữ thường được tác giả trình bày dưới hai dạng: hoặc miêu tả chi tiết hoặc chỉ
khẳng định bằng đôi lời ngắn gọn. Dù dưới dạng nào, sắc đẹp người đàn bà đều có sức hấp dẫn
không thể nào cưỡng lại: Tình yêu thường đến bắt chợt, ngay lần gặp gỡ đầu tiên, gây nên tiếng
sét ái tình. vấn đề thú vị là trong xã hội trung cổ theo đạo Hồi, sự phân biệt nam nữ đạt đỉnh cao,
người phụ nữ khi bước ra khỏi nhà hoặc đứng trước mặt đàn ông- trừ trường hợp đấy là cha,
chồng hoặc anh em trai của mình- buộc phải luôn luôn đội chiếc khăn xùm xụp trên đầu và mang
một tấm mạng dày che mặt, làm sao nàng tạo nên tiếng sét đối với chàng trai? Sự tài tình của dân
gian thể hiện qua những tình huống khá bất ngờ. Có những sắc đẹp dữ dội, đưa đến cái chết hoặc
điên khùng cho những chàng trai nào chẳng may nhìn thấy: công chúa nước Casơmia bỏ mạng
che mặt ra những buổi đi săn bắn; công chúa nước Carim qua những buổi ở sân chơi cầu; cô con
gái cưng duy nhất của hoàng đế nước Trung Hoa hấp dẫn bao nhiêu hoàng tử nước ngoài lũ lượt
đến Bắc Kinh tự nguyện tìm nguy cơ mất mạng, chỉ thông qua một bức họa truyền thần và lời
đồn đại về sắc đẹp cá lặn chim sa cửa nàng; thậm chí di ảnh một bà vợ của đại đế Xalomon thời
thượng cổ làm vẫn một vị hoàng tử trẻ đời sau mê mẩn đến mức bôn ba qua bốn biển năm châu
mong tìm gặp cho bằng được.
Tiếng sét ái tình thường hay xảy ra trong tình huống hất sức ngẫu nhiên. Chàng Abuncaxem
nhìn thấy dung nhan người đẹp Đilara trong dinh cơ thâm nghiêm của ngài thống đốc nhờ ngọn
gió vô tình một lần vén bức rèm che cửa sổ phòng nàng. Cậu hầu phòng Ha xan nếu không mải
vì buồn rầu mà thơ thẩn quá muộn trong vườn ngự uyển, làm sao gặp được công chúa Zêlica
giữa đêm khuya thanh vắng. Quốc vương Narixađôlê đi đến phải lòng nàng Zainep chỉ do tội của
ông bạn Abđeraman quá khoe khoang sắc đẹp của người yêu mình.
9
Để cuốn hút người đọc (hoặc người nghe chuyện), phần còn lại do tài năng người kể chuyện
quyết định, nhờ nhiều chi tiết khá bất ngờ. Chàng Malec cậy một chiếc hòm gỗ biết bay để chở
chàng đến đáp xuống trên nóc biệt thự nàng công chúa được canh phòng cẩn mật không kém một
pháo đài. Hoàng tử Hocmo cải trang thành một cậu giúp việc làm vườn bị bệnh chốc đầu thì mới
nhìn thấy mặt công chúa nước Carim. Cũng có những trường hợp "đời thường" hơn, như mua
chuộc một cô hầu gái, nhờ một viên hoạn nô mang thư từ trao đổi, cải trang thành đàn bà để
thâm nhập nơi cung cấm Giữa bao nhiêu cô gái, cô nào cũng được tác giả mô tá rất đẹp rất
xinh, tưởng không còn ai có thể đẹp xinh hơn nữa, bỗng ngôi sao chính xuất hiện. Và chỉ cần
nàng cất tấm mạng che mặt, đủ gây nên tiếng sét ái tình. Tấm mạng che mặt hạn chế quyền tự do
của người phụ nữ, nhưng nó lại là công cụ hữu hiệu gây nên cú sốc cho các chàng trai khi người
đẹp vô tình hoặc cố ý bỏ mạng ra. Tiếng sét đầu tiên tai hại thật đấy, song dù sao cũng mới gây
cú sốc ban đầu. Để cho các chàng trai thật sự mê mẩn, người đẹp còn cần có duyên ngầm, giỏi
cách ứng xứ, có đức hạnh, đầy thông minh trí tuệ, thậm chí học vấn giỏi giang hơn cả những vị
đại học sĩ uyên thâm nhất ở triều đình hoàng đế nước Trung Hoa.
Cuối cùng, cũng như truyện dân gian ở tất cả mọi nơi, tình tiết nàng Kiều tái hồi Kim Trọng
không thể nào thiếu. Những người yêu sở dĩ phải trải qua bao gian nan, cách trở ấy là vì duyên
số thứ thách sự kiên định và lòng chung thủy đối với người mình trót yêu, "trên đời chỉ nên yêu
một lần, và đã yêu thì yêu đến trọn đời", như lời khúc hát của nàng Zêlica. Người xưa vốn ưa
chuộng các truyện tình kết thúc có hậu.
PHÉP THẦN.
Người xưa đều tin có thần linh. Thần linh tồn tại song song với con người, chen vào cuộc sống
con người, mang đến cho người bất hạnh hoặc mừng vui. Đấy là đặc điểm của mọi đa thần giáo.
Đạo Hồi được xây dựng trên nền tảng nhất thần, chỉ tin vào một Thượng đế tối cao, vẫn chấp
nhận mọi thần linh do lịch sử để lại hoặc mới được trí tưởng tượng sáng tạo thêm. Nhưng họ đặt
mọi thần linh ác cũng như hiền dưới quyền uy của Đấng tối cao, như thể mọi chư hầu, quan lại ở
bất kỳ đâu đâu đều phải chịu quy về khuất phục trước uy vũ một đức hoàng đế độc đoán chuyên
quyền
Thần linh có quyền . năng vượt quá sức người trần thế song lại sống không máy khác con
người. Thần linh cũng yêu thương giận ghét, cũng thù hận hoặc biết ơn người khác y hệt người
trần. Nàng công chúa thần linh Sêhêristani không thể không phải lòng hoàng tứ Ruvansat bởi
nhìn thấy chàng cực kỳ tuấn tú khôi ngô. Hai anh em thần linh Ađi và Đahy xấu xí dị hình đấy,
vẫn dành mấy trăm năm đi tìm cho bằng được những cô gái dưới tuổi hai mươi chịu yêu thương
mình. Người nào đeo chiếc nhẫn có dấu ấn đại đế Xalomon, người ấy sẽ được mọi thần linh tuân
lệnh, mọi dã thú sợ hãi và tránh xa. Tuy nhiên, đứng cao hơn tất cả mọi thần là Đấng đại tiên tri
Mahômêt của Đức Alah. Thông qua lời cầu nguyện của Đại tiên tri, Thượng đế sẽ bắt bão tố sẽ
bất thần nổi lên đúng lúc, hoặc trở lại trời yên biển lặng khi cần.
Bên cạnh thần linh có vai trò các phù thủy. Những người này nhờ dày công tu luyện đã tạo
được cho mình quyền năng to lớn. Có phù thủy độc ác thích biến các chàng trai và cô gái thành
những con hươu. Lại có những bậc hiền, chỉ lo làm việc thiện, cho phép các con vật hất hạnh ấy
lấy lại hình người. Nhờ công phu tu luyện, một tu sĩ già theo đạo Bà La Môn có thể bắt thần linh
làm nô lệ hầu hạ mình, hoặc cho một người nhập linh hồn của mình vào một con vật mới chết
chưa lâu. Các phép thần là thủ pháp giúp người kể chuyện sáng tạo nên nhiều chi tiết bất ngờ
nhất, giúp tác giả gỡ một cách dễ dàng và vui vẻ những cái nút cực kỳ rối rắm trót thắt lại ngay
từ đầu. Bao nhiêu câu chuyện diễn ra trong một không gian trải dài từ bờ Địa Trung Hải tới giữa
Thái Bình Dương, nếu không cậy đến phép thần, làm sao người kể chuyện có thể xứ lý theo ý
muốn? Và rết cuộc, cũng như những con người trần thế, thần linh có đẹp có xấu, có thiện có ác;
ai làm điều thiện sẽ được trả công, ai gây cái ác sẽ bị trừng phạt.
CUỘC SỐNG THỜI TRUNG CỔ.
Ngay tại Lời thưa trước khi trình bạn đọc bộ truyện Nghìn lẻ một ngày, F.P. De La Croix đã
nói rõ, ông tự đề ra mục tiêu giới thiệu với độc giả bức tranh sinh động mô tả sinh hoạt người
dân Đông phương thời Trung cổ. Các "bậc uyên bác" không còn lý do trách nhà Đông phương
học , sao lãng phí thời gian làm nhưng chuyện vớ vẩn như thế" ,bởi các truyện ông kể ra "không
10
chỉ thú vị mà còn bổ ích". Ông thưa: "Tác giả chủ ý ghi chính xác địa danh những nơi diễn ra sự
việc, và qua các câu chuyện, mô tả phong tục, tập quán nhiều dân tộc khác nhau ở châu á Nếu
khung cảnh câu chuyện diễn ra tại xứ Tarta, độc giả sẽ nhận thấy người dân ở đây sinh hoạt
khác hẳn người sống ở thành trong nguyên tác của F.P.De La Croix, và có ghi chú thêm đôi điều
thiết nghĩ cần thiết cho người đọc Việt Nam ta.
Lời giới thiệu (cũng như phụ lục) có tham khảo một phần tư liệu do Paul Sebag sưu tầm và
sắp xếp. Bắt tay dịch bộ Một nghìn lẻ một ngày, chúng tôi cũng lại vấp phải một số khó khăn như
khi dịch Một nghìn lẻ một đêm. Đây là những truyện được người đời sau kể lại dựa vào các
truyện cổ Ba Tư thông qua các bản dịch tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, và thực hiện theo "phong cách kể
chuyện của các tác phẩm văn học Pháp thế kỷ thứ XVIIII" Chúng tôi cố gắng bám sát nguyên
tác, tuy đôi khi nghe hơi lạ tai, hy vọng giữ được bầu không khí "ngoại lai" (exotique). Một khó
khăn là cách xưng hô. Thông thường người tâu bệ hạ" phải xưng "thần". Dùng lối nhân xưng
như vậy suốt cả ngàn . trang sách .sẽ rất nặng nề. Bởi vậy, cũng như với bộ Nghìn lẻ một đêm,
người dịch xin phép cho người kể chuyện được xưng "tôi" một cách thoải mái. Về thực chất, các
truyện kể không nhất thiết để hầu "bệ hạ" nghe, mà đây là người kể chuyện dân gian thuật lại
trước công chúng đông đảo, theo phong cách những người kể chuyện rong thời xưa. Chúng tôi
tin, chỉ cần sau vài ba chục dòng, người đọc sẽ quên đi triều đình vua chúa mà bị cuốn hút theo
nội dung các câu chuyện dân gian.
Hà Nội, 2004.
Phan Quang
LỜI THƯA
Khi đưa in tập đầu bộ truyện kể này, chúng tôi không dịch tiếp nữa. Trước khi cho in thêm các
truyện khác, chúng tôi muốn thăm dò thị hiếu công chúng. Sau tất cả những tập truyện kể đã xuất bản
từ trước đến nay, chúng tôi ngại không dám mạo muội cho ra thêm, cho dù biết rõ những loại sách ấy
lúc nào cũng dễ bán nếu có nội dung vui vui Thành công của tập đầu đã khuyến khích người dịch
tiếp tục công việc của mình vào những giờ phút rỗi rãi, thành ra mặc dù ông bận trăm công nghìn
việc khác, chúng ta vần hy vọng dịch giả sẽ cung cấp cho bạn đọc mỗi tháng một tập Nghìn lẻ một
ngày.
Các bậc uyên bác hẳn sai lầm nếu trách cứ dịch giả sao lại lãng phí thời gian vào những việc vớ
vẩn như thế, bởi những câu chuyện này không chỉ thú vị mà bổ ích nữa. Quả vậy, tác giả đã chú ý ghi
chính xác địa danh những nơi xảy ra sự việc, và qua các câu chuyện, mô tả phong tục, tập quán nhiều
dân tộc khác nhau ở châu á. Chẳng hạn, nếu khung cảnh câu chuyện diễn ra tại xứ Tarta, độc giả sẽ
nhận thấy người dân ở đấy sinh hoạt khác hẳn người sống ở Batđa hoặc ở Ai Cập. Món ăn, thức
uống, trang phục mỗi nơi đều thể hiện những đặc trưng của từng dân tộc nơi ấy.
Ngoài ra, tất cả đạo lý của Hồi giáo được bàn bạc trong sách. Người đọc có thể hiểu được lý thuyết
thần học của họ; hơn nữa người dịch đã cẩn thận chú thích thêm vô số những nhận xét lý thú; dịch
giả đã hết sức cẩn trọng, làm sao để được người đọc tha thứ cho cách mua vui của mình, và để trong
chừng mực có thể, cứu tác phẩm khỏi sự khinh rẻ của những vị độc giả nghiêm trang nào đó, các vị
này không sao chịu đựng nổi các câu chuyện hư cấu cho dù tài tình đến đâu; đối với các vị ấy cuốn
sách hay nhất cũng chỉ có thể mang lại niềm vui cho người đọc nếu nội dung của nó bảo đảm đúng
sự thật hoàn toàn.
Vậy thì ớ đây không phải là một mớ những ý tưởng lập dị, hay là sự tuỳ tiện trong việc mô tả phong
tục tập quán.Nếu sức tưởng tượng của Tu sĩ Môclet đã sáng tạo nên nhiều tình tiết trong các truyện
này, thì trí suy đoán của ngài gắn chặt chúng với hình ảnh những điều có thật và cuộc sống bình
thường. Tóm lại, cỏ thể coi Nghìn lẻ một ngày như những câu chuyện do những người đi xa về thuật
lại, tức là một tác phẩm chứa đựng rất nhiều điều quan sát chân thực, xứng đáng với sự hiếu kỳ của
công chúng.
Chú thích.
(*) Lời thưa này được đặt lên đầu tập II bộ Nghìn lẻ một ngày, in năm 1711, bắt đầu vào ngày thứ 37
(PQ)
Chắc tu sĩ Moclet từng đặt ra cho mình nhiệm vụ làm sao tác phẩm của ngài vừa lý thú vừa bổ ích
cho những người theo đạo Hồi, cho nên ngài đã đưa vào phần lớn các truyện kể nhiều phép lạ của
đức Mahômêt, như bạn đọc có thể thấy ớ một vài truyện trong tập này. Chúng tôi không muốn dịch
11
tiếp các phép lạ khác, sợ làm quý độc giả chán.
Cũng có một số chuyện trong đó cách hành xử của nhân vật quá phóng túng, chúng tôi xin phép
không dịch nguyên văn. Lối sống ấy, phong tục tập quán của người phương Đông có thể chấp nhận,
nhưng lại hoàn toàn không phù hợp với nếp sinh hoạt của chúng ta.
Do vậy, người dịch buộc phải có sự điều chỉnh chút ít so với nguyên tác để giữ được sự tiếp nối của
diễn biến câu chuyện. Chúng ta chuyển đột ngột từ ngày thứ 190 sang luôn ngày thứ 960; song sự
chuyển tiếp bất thường ấy chỉ có những người thích đếm số thứ tự thời gian mới nhận thấy. Các độc
giả khác sẽ không cảm nhận điều ấy, họ sẽ đọc một hơi bộ sách mà không hề nghĩ chưa hẳn bộ
Nghìn lẻ một ngày đã dùng hết trọn vẹn nghìn lẻ một ngày.
Chú thích.
(*)Lời thưa này được đặt lên đầu tập V (và cũng là tập cuối) bộ
Nghìn lẻ một ngày, in năm 1714, bắt đầu vào ngày thứ 178 (PQ).
LỜI TỰA
Chúng tôi có được những truyện kể này nhờ tu sĩ Moclet(l), người mà nước Ba Tư tôn vinh là một
trong những nhân vật vĩ đại của xứ sở họ. Ngài là vị Trưởng các giáo sĩ thành phố Ispahan. Ngài có
mười hai đệ tử cùng bận những tấm áo chùng bằng len trắng giống như nhau.
Các vị quý tộc cũng như dân chúng ai cũng đặc biệt sùng kính ngài vì ngài là hậu duệ trực hệ của đức
Mahômêt; mọi người đều cảm thấy ngại ngùng khi đứng trước mặt ngài bởi ngài là một nhà truyền
giáo uyên thâm. Ngay bản thân quốc vương Sat-xôliman cũng trọng vọng ngài tới mức mỗi lần tình
cờ gặp ngài trên đường, vua đều vội vã xuống ngựa và tiến đến hôn đôi bàn đạp bộ yên cương của
ngài.
Thời còn trẻ tuổi, tu sĩ Moclet đã nghĩ tới chuyện dịch ra tiếng Ba Tư những hài kịch ân Độ từng
được chuyển ngừ sang tất cả mọi ngôn ngữ Đông phương; ngay trong Thư viện của Hoàng gia ta
cũng có lưu trữ một bản dịch tiếng Thổ Nhĩ Kỳ mang nhan đề Al-farage bad al- shidda, có nghĩa là
Niềm vui sau nỗi buồn. Nhưng nhà dịch giả tiếng Ba Tư ấy lại muốn công trình mình mang tính độc
đáo, ngài đã chuyển các hài kịch ân Độ thành dạng truyện kể và đặt tên là Hezaryec, tức Nghìn lẻ
một ngày Ngài ký thác bản viết tay của mình cho ông Pétisde La Croix là người từng giao du thân
thiết với ngài tại thành phố Ispahan năm 1675, thậm chí còn cho phép ông được sao chép lấy một
bản.
Thoạt nghe tưởng như bộ Nghìn lẻ một ngày chúng là gì khác ngoài một bản rập theo khuôn mẫu
bộ Nghìn lẻ một đêm . Quả vậy, hai bộ sách cùng chung một hình thức. Tuy nhiên.ý đồ của.hai bộ.
truyện lại có sự.trái ngược, giống như đầu đề của chúng. Nghìn lẻ một đêm là câu chuyện một nhà
vua căm ghét đàn bà, còn Nghìn lẻ một ngày lại là câu chuyện .một nàng công chúa ác cảm với. đàn
ông.
Cũng có thể nghĩ bộ truyện này gợi ý để sáng tác nên bộ truyện kia; song bởi vì các .truyện kể A
rập không. hề. ghi niên đại, cho nên khó đoán định rằng các truyện" A Rập được sáng tạo nên trước
hay sau các truyện Ba Tư.
Dù thế nào đi nữa, bộ Nghìn lẻ một ngày vẫn có thể mua vui cho những ai từng cảm thấy thú vị
khi đọc bộ Nghìn lẻ một đêm, bởi hai bộ cùng mô tả những phong tục tương tự như nhau bằng sức
tưởng tượng sống động chẳng kém gì nhau. Có điều những độc giả nào đọc bộ truyện A Rập mà nghĩ
rằng nàng Sêhêrazat động cơ không được trong sảng cho lắm, vì qua các truyện nàng đặt ra và kể lại
để cố thuyết phục vua Sang rằng trên đời có những người phụ nữ chung tình, ấy là vì mục đích kéo
dài cuộc sống của nàng là chính, chứ chưa hẳn nhằm giải thoát quốc vương ân Độ khỏi những định
kiến sai lầm đối với đàn bà; tôi nghĩ các vị độc giả ấy chẳng tìm được lý do nào để có thể chê trách tu
sĩ Moclét về mặt đó. Bà nhũ mẫu Xútlumơmê tự đề ra cho mình từ đầu mục tiêu làm sao khắc phục
mối ác cảm của nàng công chúa đối với các đấng mày râu, lúc nào bà cũng chăm chăm hướng vào
cái đích ấy Đúng là trong tất cả mọi truyện bà kể, tất cả mọi đức ông chồng hoặc mọi đấng tình quân
đều là người chung thủy. Độc giả thấy rõ bà nhũ mẫu luôn nghĩ tới việc chữa cho công chúa Farucna
khỏi căn bệnh ngộ nhận, tuy thế bà vẫn không vì sự cần thiết không được rời xa mục tiêu đã định ấy
mà làm biến dạng những tình tiết vô cùng phong phú chứa đựng trong các tác phẩm văn chương
thuộc loại hình này(2).
Chú thích.
(1) Nguyên bản tiếng Pháp: Mocles.
(2)Tựa của Pétisde La Croix viết năm 1710 (PQ)
12
Chương 1
CHUYỆN NÀNG CÔNG CHÚA NƯỚC CASƠMIA
Vương quốc Casơmia (Một vương quốc nhỏ nằm giữa nước Ấn Độ và xứ Tây Tạng) ngày xưa
có một nhà vua trị vì tên là Tugrun-Bây. Vua sinh hạ một hoàng tử và một công chúa được mọi
người đương thời vô cùng ái mộ. Hoàng tử Farucru (Có nghĩa là Ánh sáng tốt lành) thật sự là
một vị anh hùng niên thiếu được thần dân tin yêu về đức độ, còn em gái của chàng, công chúa
Farucna (Có nghĩa là Niềm kiêu hãnh tốt lành) thì đẹp tựa Hằng Nga giáng trần.
Quả vậy, nàng công chúa ấy vừa xinh tươi vừa sắc sảo đến nỗi bất kỳ người đàn ông nào mà cả
gan trộm ngắm dung nhan nàng đều không thể không đem lòng say đắm; nhưng đấy rốt cuộc là
mối tình bất hạnh bởi phần lớn các chàng đều trở nên người mất trí hoặc sa vào một nỗi đam mê
trầm lặng làm thân thể héo mòn.
Mỗi lần ra khỏi hoàng cung để đi săn bắn, công chúa thường không đeo mạng che mặt; thế là
đông đảo dân chúng ùa theo sau, vừa đi vừa reo hò tỏ lòng vui sướng được tự mắt nhìn thấy
dung nhan người đẹp. Nàng thường cưỡi một con ngựa thuần chủng Tarta lông trắng như tuyết
có điểm những đốm nâu; quây quần quanh nàng một trăm nữ nô lệ ăn mặc lộng lẫy ngồi trên
lưng những con ngựa đen tuyền. Tất cả các cô đều không đeo mạng, và phần lớn ai cũng xinh
đẹp duyên dáng tuyệt trần; tuy nhiên chỉ có nữ chủ nhân là thu hút về mình mọi đôi mắt của dân
chúng theo sau. Bất chấp cả một đội cận vệ đông đảo kiên quyết ngăn chặn, dân chúng ai cũng
chen lấn để cố gắng đến được gần nàng hơn chút nữa. Lính tráng gươm tuốt trần lăm lăm ở tay,
cũng chẳng sao xua được mọi người tránh xa nàng ra một ít; nhiều binh sĩ còn đang tâm đánh
đập thậm chí giết hại những người sán đến quá gần nàng, vậy mà những chàng trai đáng thương
ấy đã không lo cho số phận thảm thương có thể đón chờ mình thì chớ, lại dường như tỏ ra thích
thú được bỏ mạng ngay trước mắt nàng công chúa mà họ coi là thần tượng của mình.
Quốc vương mủi lòng trước những điều bất hạnh xảy ra cho thần dân do nhan sắc con gái mình
gây nên, liền quyết định từ nay không cho phép công chúa xuất hiện lộ liễu trước mắt các chàng
trai. Vua cấm nàng ra khỏi cung cấm, thế là dân chúng không còn dịp ngắm nhìn người đẹp nữa.
Tuy nhiên tiếng đồn về nhan sắc chim sa cá lặn của công chúa lan truyền khắp các nước phương
Đông, khiến nhiều nhà vua không hẹn mà nên, ai cũng chắc chắn tin rằng đấy đích thực là một
tuyệt thế giai nhân. Vậy là chẳng bao lâu, nhân dân nước Casơmia hay tin sứ thần tất cả các nước
châu Á đang từ nhiều nơi trẩy tới kinh đô tìm các cầu hôn công chúa nước này cho con trai quân
vương họ. Nhưng trước khi các sứ giả tới kinh thành, công chúa Farucna một đêm nằm mộng,
cơn mộng khiến nàng cho rằng tất cả mọi người đàn ông trên trái đất đều khả ố. Đêm ấy nàng
mơ thấy một con hươu đực sa bẫy, con hươu cái tìm mọi cách giúp con đực thoát ra, đến lượt
con hươu cái chẳng may cũng sa vào chính cái bẫy ấy, thì lúc này con hươu đực chẳng hề cứu
giúp, lại thản nhiên để mặc con cái vướng trong bẫy mà một mình bỏ đi.
Tỉnh dậy, lòng công chúa bị xáo động dữ dội bởi giấc mơ. Nàng không nghĩ đấy chỉ là chuyện
mộng mị thường tình mà cho rằng đây hẳn một điềm mà Ngọc hoàng Thượng đế do quan tâm
đến số phận của nàng, đã bằng cách báo mộng dạy cho nàng biết, tất cả đàn ông trên trần thế này
chẳng qua đều một duộc những tên phản trắc chuyên lợi dụng lòng dạ cả tin của đàn bà con gái
mà thôi.
Bị ám ảnh bởi ý nghĩ kỳ quặc ấy, và lo sợ mình rồi có thể sẽ là vật hy sinh cho một vị quân
vương nào đấy trong vô số những người đang phái sứ thần lũ lượt đổ về kinh đô Casơmia cầu
hôn, nàng vội tìm đến xin gặp vua cha. Không để lộ cho phụ vương biết lòng mình căm ghét đàn
ông, nàng chỉ nước mắt giọt vắn giọt dài van xin người chớ vội gả con cho một người đàn ông
không hợp ý nàng. Nước mắt đứa con gái yêu làm mủi lòng vua cha Tugrun-Bây. Ông nói:
„Không, con gái của cha ơi, cha chẳng bao giờ ép buộc duyên con. Mặc dù lẽ đời đối với con
gái, cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đấy, cha vẫn thề với con trước đức Ngọc hoàng thượng đế
rằng không một hoàng tử nào, cho dù đấy là con trai Quốc vương nước Ấn Độ vô cùng hùng
13
mạnh đi nữa, được phép làm bạn với con nếu không được con đồng ý “. Công chúa tin tưởng vào
lời thề mà nàng biết thế nào vua cha cũng giữ vẹn, rất hài lòng trở về cung riêng, lòng dặn lòng
dứt khoát từ nay chẳng bao giờ đồng ý trao thân cho bất kỳ một hoàng tử nào.
Mấy ngày sau, sứ thần nhiều nước tới kinh thành. Họ lần lượt được Quốc vương Casơmia tiếp
kiến. Sứ thần nào cũng khoe khoang về đất nước thịnh vượng của mình và ngợi ca tài năng đức
hạnh hoàng tử mình. Quốc vương Tugrun-Bây đãi đằng họ hết sức trọng vọng, song nói rõ với
mọi người là công chúa được quyền tự định đoạt hôn nhân, rằng vua đã thề trước Ngọc hoàng
Thượng đế không ép duyên con, trái với ý muốn của nàng. Mà nàng công chúa thì chẳng hề ưng
thuận một ai, thành ra rốt cuộc mọi sứ thần các nước lần lượt theo chân nhau ra về, ai cũng bối
rối trong lòng vì không làm tròn sứ mệnh được giao.
Vua Tugrun-Bây là người khôn ngoan, vua phiền lòng nhìn các sứ giả ra về; ông những lo các
nhà vua hùng mạnh bị khước từ việc cầu hôn sẽ nổi cơn thịnh nộ rồi tìm cách trả thù mối nhục
chăng. Ông tự trách mình sao dễ dàng thề thốt, để rồi biết đâu chẳng gây nên một cuộc chiến
tranh, liền cho gọi bà nhũ mẫu của công chúa Farucna đến gặp.
- Này bà Xutlumêmê (Có nghĩa là Bầu sữa), vua nói-ta nói thật với bà, cách xử sự của công chúa
làm ta rất đỗi ngạc nhiên. Ai đã gây nên cho nàng sự chán ghét hôn nhân dường ấy? Bà nói ta
nghe, có phải chính bà là người đã gợi nên trong lòng công chúa suy nghĩ lạ lùng kia?
Bà nhũ mẫu đáp:
- Muôn tâu hoàng thượng, không phải tại tôi. Tôi xưa nay đâu có phải người hận thù nam giới,
ấy là do một giấc mộng gây nên cho nàng.
Vua ngạc nhiên:
- Một giấc mộng ư? Bà nói gì với ta vậy? –Suy nghĩ một lát vua nói tiếp- Ta không thể tin lời bà.
Có giấc mộng nào lại gây ấn tượng mạnh mẽ vào tâm trí con gái ta đến vậy?
Bà Xutlumêmê thuật lại cho vua đầu đuôi câu chuyện, và thưa tiếp:
- Muôn tâu hoàng thượng, đấy chính là giấc mộng đã tác động sâu xa đến công chúa. Qua thái độ
con hươu đực, công chúa suy ra mọi đàn ông trên đời này đều vô ơn bội nghĩa không khác nào
con vật ấy, cho nên mới khước từ mọi đám đến cầu hôn.
Lời bà nhũ mẫu càng làm tăng thêm sự ngạc nhiên của nhà vua. Không hiểu làm sao chỉ một cơn
mộng mị lại đưa công chúa đến nông nỗi ấy, vua nói:
- Này, bà Xutlumêmê thân mến, bà xem chúng ta có cách gì chữa cho đầu óc con gái ta thoát
khỏi cái bệnh nghi kỵ đàn ông ? Bà có tin, có thể tìm ra phương sách nào làm cho công chúa
phục hồi lý trí?
- Tâu hoàng thượng, -bà nhũ mẫu đáp- nếu ngài cố giao cho tôi nhiệm vụ ấy, tôi hy vọng sẽ có
cách làm tròn một cách tốt đẹp.
- Bà làm cách nào? –Vua Tugrun-Bây lại hỏi,
- Tôi thuộc lòng cơ man là câu chuyện thú vị, mang ra kể hầu công chúa có thể vừa giải trí nàng
vừa làm cho nàng dần dần gỡ bỏ định kiến nặng nề đối với nam giới. Bằng cách làm cho công
chúa tin rằng xưa kia từng có những người tình chung thuỷ, tôi sẽ từng bước làm cho nàng vỡ ra
ngày nay trên đời cũng có khối đấng tình quân thuỷ chung như thế. Tóm lại, muôn tâu hoàng
thượng, bà vú nói tiếp-xin ngài hãy cho phép tôi được giúp công chúa tự nhận ra mình đã nghĩ
không đúng, tôi tin tưởng hoàn toàn có thể đạt được ý nguyện.
Được quốc vương đồng ý, bà nhũ mẫu chỉ còn lo nghĩ cách tìm ra cơ hội thuận tiện nhất để
thực thi ý định của mình.
Vì thông thường sau bữa ăn trưa cùng nhà vua, hoàng tử anh trai và các quận chúa trong triều,
công chúa bao giờ cũng dành suốt cả buổi chiều để thưởng thức cá nữ tì trong cung cấm đàn ca
hát xướng mua vui. Bà Xutlumêmê nghĩ chỉ có các buổi sáng là thời gian thuận tiện nhất. Bà
quyết định, nên thực hiện ý đồ của mình vào lúc công chúa đang ở trong nhà tắm. Bởi vậy ngay
sáng hôm sau, chờ khi công chúa đã vào trong phòng tắm, bà nhũ mẫu mới ngỏ lời thưa:
Già này biết một câu chuyện có nhiều tình tiết hết sức đặc sắc, nếu công chúa vui lòng cho phép
thì già xin được hầu chuyện, tin rằng công chúa nghe rồi, sẽ lấy làm thú vị cho mà xem.
Vậy là nàng công chúa nước Casơmia, có lẽ tự mình thích nghe câu chuyện thì ít, mà để làm hài
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét