Phân loại chi phí là việc sắp xếp CPSX vào từng loại, từng nhóm khác
nhau theo những tiêu thức nhất định.
* Phân loại CPSX theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh:
Theo cách phân loại này, CPSX chia thành 3 loại:
- Chi phí sản xuất kinh doanh: Bao gồm những chi phí có liên quan đến
hoạt động sản xuất, tiêu thụ và quản lý hành chính, quản trị kinh doanh.
- Chi phí hoạt động tài chính: Bao gồm những chi phí liên quan đến hoạt
động về vốn và đầu tư tài chính.
- Chi phí bất thường: Bao gồm những chi phí ngoài dự kiến như chi phí về
thanh lý, nhượng bán TSCĐ
Cách phân loại này giúp cho việc phân định chi phí được chính xác, phục
vụ cho việc tính toán giá thành, xác định chi phí và kết quả của từng hoạt
động kinh doanh đúng đắn, cũng như lập báo cáo tài chính nhanh chóng, kịp
thời.
* Phân loại chi phí theo yếu tố chi phí :
Nhằm phục vụ cho việc tập hợp CPSX và quản lý chi phí theo nội dung
kinh tế của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh chi phí,
người ta tập hợp những chi phí có cùng nội dung, tính chất kinh tế thành một
nhóm. Theo chế độ kế toán hiện hành, CPSX được chia làm 5 yếu tố sau đây:
- Yếu tố nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu
chính, nguyên vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ sử dụng vào
mục đích sản xuất kinh doanh trong kỳ báo cáo.
- Yếu tố chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương ( chi phí nhân
công): Bao gồm toàn bộ các khoản phải trả cho người lao động trong
lĩnh vực sản xuất của doanh nghiệp như tiền lương, các khoản trích
theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ), các khoản trợ cấp, phụ cấp cho
công nhân và nhân viên quản lý phân xưởng.
5
- Yếu tố chi phí KHTSCĐ: Phản ánh tổng số khấu hao phải trích trong
kỳ của tất cả các TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ.
- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Là toàn bộ số tiền mà doanh
nghiệp phải trả cho các loại dịch vụ mua ngoài phục vụ cho quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như tiền điện, nước,
điện thoại và các dịch vụ khác.
- Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng
tiền chưa được phản ánh vào các yếu tố tiêu dùng vào hoạt động sản
xuất kinh doanh trong kỳ.
Cách phân loại này cho biết được kết cấu, tỷ trọng của từng yếu tố chi
phí sản xuất để phân tích, đánh giá các chỉ tiêu và tình hình thực hiện dự toán
chi phí sản xuất, làm căn cứ để lập bản thuyết minh báo cáo tài chính phục vụ
cho yêu cầu thông tin quản trị doanh nghiệp và lập dự toán chi phí sản xuất
cho kỳ sau.
* Phân loại CPSX theo khoản mục:
Theo cách phân loại này CPSX được chia thành 3 loại chính:
- CPNVLTT: Bao gồm chi phí về các loại nguyên vật liệu( kể cả nửa
thành phẩm mua ngoài), vật liệu phụ, nhiên liệu sử dụng trực tiếp vào
sản xuất, chế tạo SP.
- CPNCTT: Bao gồm toàn bộ chi phí về tiền lương, phụ cấp và các
khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ trên tiền lương của CNTTSX theo
quy định.
- CPSXC: Là những chi phí dùng vào việc quản lý và phục vụ sản xuất
chung tại bộ phận sản xuất( phân xưởng, tổ đội ). CPSXC bao gồm:
+ CPNVPX: Gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp và các khoản trích
BHXH, BHYT, KPCĐ trên tiền lương của NVPX.
6
+ Chi phí vật liệu: Phản ánh chi phí vật liệu sử dụng chung như vật liệu
dùng để sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ, vật liệu văn phòng phục vụ cho nhu
cầu quản lý chung ở các phân xưởng.
+ Chi phí CCDC: Phản ánh chi phí CCDC dùng cho nhu cầu sản xuất
chung ở các phân xưởng: khuôn mẫu, dụng cụ gá lắp
+ Chi phí KHTSCĐ: Phản ánh toàn bộ số tiền trích khấu hao của
TSCĐHH, TSCĐVH, TSCĐ thuê tài chính sử dụng ở các phân xưởng.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Bao gồm những chi phí về lao vụ, dịch vụ
mua ngoài để phục vụ cho hoạt động sản xuất chung của phân xưởng, tổ đội
(điện, nước, điện thoại)
+ Chi phí khác bằng tiền: Bao gồm các khoản chi bằng tiền ngoài các
khoản chi phí trên, sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung của phân xưởng, tổ
đội.
Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức độ phân bổ
chi phí cho từng đối tượng. Nó có tác dụng phục vụ cho nhu cầu quản lý
CPSX theo định mức, là cơ sở cho kế toán CPSX và tính giá thành sản phẩm
theo khoản mục, là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành
và định mức chi phí cho kỳ sau.
* Phân loại CFSX theo chức năng trong sản xuất kinh doanh:
Bao gồm 3 loại:
- Chi phí thực hiện chức năng sản xuất: Gồm những chi phí phát sinh
liên quan đến việc chế tạo sản phẩm hoặc thực hiện các lao vụ, dịch
vụ trong phạm vi phân xưởng.
- Chi phí thực hiện chức năng tiêu thụ: Bao gồm tất cả những chi phí có
liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ.
7
- Chi phí thực hiện chức năng quản lý: Bao gồm những chi phí quản lý
kinh doanh, hành chính và những chi phí chung phát sinh liên quan
đến hoạt động của doanh nghiệp.
Cách phân loại này làm cơ sở để xác định giá thành công xưởng, giá
thành toàn bộ, xác định giá trị hàng hoá tồn kho, phân biệt được chi phí theo
từng chức năng cũng như làm căn cứ để kiểm soát và quản lý chi phí.
*Phân loại theo phương pháp tính nhập chi phí vào giá thành:
Chi phí theo cách phân loại này chia làm hai loại:
- Chi phí trực tiếp: Là toàn bộ những chi phí có thể tính trực tiếp vào
giá thành của từng đối tượng chịu chi phí
- Chi phí gián tiếp: Là tất cả những chi phí có liên quan đến nhiều sản
phẩm, nhiều công việc (đối tượng khác nhau). Vì vậy, để tính vào chỉ
tiêu giá thành không thể tập hợp trực tiếp mà phải dùng phương pháp
phân bổ gián tiếp.
Cách phân loại này có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định phương
pháp tập hợp CPSX và phân bổ CPSX một cách đúng đắn và hợp lý.
*Phân loại chi phí theo cách thức kết chuyển chi phí:
Bao gồm 2 loại chi phí:
- Chi phí sản phẩm: Là chi phí gắn liền với sản phẩm sản xuất ra hoặc
được mua trong kỳ để bán lại. Chi phí sản phẩm là những chi phí như nguyên
vật liệu trực tiếp, lao động trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Như vậy, chi phí
sản phẩm luôn gắn liền với sản phẩm và chỉ thu hồi khi sản phẩm tiêu thụ còn
khi sản phẩm chưa được tiêu thụ thì chúng nằm trong sản phẩm tồn kho.
- Chi phí thời kỳ: Là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ kinh
doanh nào đó, hay còn gọi là chi phí phát sinh (CPBH, CPQLDN). Chi phí
thời kỳ không phải là những chi phí tạo thành thực thể sản phẩm hay nằm
trong các yếu tố cấu thành giá vốn của hàng hoá mua vào. Nó là những khoản
8
chi phí hoàn toàn biệt lập với quá trình sản xuất sản phẩm hoặc mua hàng
hoá.
*Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí:
Bao gồm 3 loại :
- Biến phí: Là những khoản mục chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với biến
động về mức độ hoạt động của khối lượng công việc và sản phẩm
hoàn thành. Biến phí thường bao gồm các khoản chi phí như: chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí lao động trực tiếp.
- Định phí: Là những khoản chi phí không biến đổi khi mức độ hoạt
động thay đổi. Định phí thường bao gồm các khoản chi phí: chi phí
khấu hao TSCĐ, chi phí thuê nhà xưởng, lương nhân viên phân
xưởng.
- Chi phí hỗn hợp: Là loại chi phí mà bản thân nó gồm cả chi phí biến
đổi và chi phí cố định.
Ngoài những cách phân loại trên, trong quá trình nghiên cứu ta có thể
gặp một số cách phân loại chi phí khác như phân loại theo chức năng kiểm
soát bao gồm chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được, phân
loại theo mức độ phù hợp gồm chi phí thích đáng và chi phí không thích đáng.
Trong quản lý kinh doanh, nếu chỉ hiểu được một mặt, hoặc một phần
của vấn đề thì rất khó khi đưa ra các quyết định quản lý. Trong công tác quản
lý chi phí và tính giá thành sản phẩm cũng vậy, yếu tố CPSX chỉ là một mặt.
Chi phí chi ra phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt thứ hai,
cũng là mặt cơ bản của sản xuất, đó là kết quả thu được sau quá trình sản
xuất. Quan hệ so sánh đó đã hình thành nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Vậy
phải hiểu như thế nào cho đúng và đầy đủ khái niệm cũng như các mối quan
hệ của giá thành sản phẩm? Sau đây ta sẽ tiến hành nghiên cứu để làm rõ vấn
đề này.
9
1.1.2. Giá thành sản phẩm:
1.1.2.1. Khái niệm giá thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí
về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác,
sản phẩm lao vụ đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp nhằm phản ánh về
chất lượng hoạt động của doanh nghiệp trên tất cả các mặt như kinh tế, kỹ
thuật tổ chức, chất lượng và hiệu quả của công việc quản lý, sử dụng vật tư,
lao động, tiền vốn của doanh nghiệp, đồng thời giá thành còn là cơ sở để
doanh nghiệp xác định giá bán của sản phẩm và kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2.2.Phân loại giá thành:
Qua những phân tích ở trên, ta thấy việc quản lý và lập kế hoạch giá
thành là rất quan trọng. Để đáp ứng những yêu cầu đó và để công tác tính giá
thành được thuận lợi, nhà quản lý phải phân loại giá thành theo các tiêu thức
khác nhau.
*Nếu căn cứ vào góc độ quản lý giá thành, thời gian và cơ sở số liệu để
tính giá thành:
Giá thành được chia làm 3 loại:
- Giá thành KH: Là giá thành được tính toán trên cơ sở giá thành thực tế
kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí kỳ KH. Giá thành KH thường
được tính toán trước khi bắt đầu tiến hành quá trình sản xuất.
- Giá thành định mức: Là giá thành được tính toán trên cơ sở các định
mức và dự toán chi phí hiện hành đã được xây dựng trong khoảng thời gian
nhất định. Giá thành định mức cũng được xây dựng trước khi bắt đâù một quá
trình sản xuất, nhưng khác với giá thành KH, giá thành định mức luôn luôn
10
thay đổi để phù hợp với sự thay đổi của các định mức hao phí trong quá trình
thực hiện KH.
- Giá thành thực tế: Là giá thành được tính toán sau khi đã hoàn thành
việc chế tạo sản phẩm, được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế
phát sinh và sản lượng thực tế đã diễn ra sau quá trình sản xuất. Đây
là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp nhằm phản ánh về chất lượng của tất cả
các hoạt động của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh.
* Nếu căn cứ vào phạm vi phát sinh chi phí:
Giá thành sản phẩm được chia làm hai loại:
- Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng): Là chỉ tiêu phản ánh
những CPSX phát sinh trong quá trình chế tạo sản phẩm ở phạm vi
phân xưởng gồm CPNVLTT, CPNCTT, CPSXC cho các sản phẩm và
lao vụ đã hoàn thành, vì thế giá thành sản xuất còn có tên gọi là giá
thành công xưởng.
- Giá thành tiêu thụ( Giá thành toàn bộ): Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ
các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, giá thành tiêu thụ vì vậy còn được gọi là giá thành đầy đủ hoặc
giá thành toàn bộ. Công thức tính như sau:
1.1.2.3.Bản chất, chức năng của giá thành:
* Bản chất của giá thành: Nói đến bản chất của giá thành sản phẩm tức là
nói đến nội dung kinh tế chứa đựng bên trong của chỉ tiêu giá thành. Điểm
qua lịch sử về lý luận giá thành, ta có thể thấy bản chất của giá thành thông
qua các quan điểm sau:
11
Giá thành toàn bộ của
sản phẩm tiêu thụ
=
Giá thành sản xuất
của sản phẩm
+
CPB
H
+
CPQLD
N
- Quan điểm cho rằng giá thành là sự hao phí lao động sống và lao
động vật hoá được dùng để sản xuất và tiêu thụ một đơn vị hoặc một
khối lượng sản phẩm nhất định.
- Quan điểm cho rằng giá thành sản phẩm là toàn bộ các khoản chi phí
mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm bất kể nó
nằm ở bộ phận nào trong các bộ phận cấu thành giá trị sản phẩm.
- Một quan điểm khác cho rằng giá thành là biểu hiện mối liên hệ
tương quan giữa một bên là chi phí sản xuất, một bên là kết quả đạt
được trong từng giai đoạn nhất định.
Ta có thể rút ra kết luận về bản chất của phạm trù giá thành như sau: Bản
chất của giá thành là sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố vật chất vào sản
phẩm, công việc lao vụ nhất định đã hoàn thành. Nếu chưa có sự dịch chuyển
này thì không thể nói đến chi phí và giá thành sản phẩm. Trong điều kiện nền
kinh tế thị trường, giá thành sản phẩm bao gồm toàn bộ các khoản hao phí vật
chất thực tế cần thiết được bù đắp, bất kể nó thuộc bộ phận nào trong cấu
thành giá trị sản phẩm.
Hạch toán giá thành chính là tính toán, xác định sự chuyển dịch các yếu
tố vật chất vào khối lượng sản phẩm vừa thoát ra khỏi quá trình sản xuất và
tiêu thụ nhằm mục đích thực hiện các chức năng của giá thành sản phẩm.
* Chức năng của giá thành:
Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế quan trọng, tổng hợp. Nó phản ánh
chất lượng hoạt động của công tác sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là
công cụ quan trọng để nhà quản lý nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất.
Nhằm có căn cứ xem xét tính chất quan trọng của chỉ tiêu giá thành trong
công tác quản lý kinh tế, cần nghiên cứu các chức năng vốn có của chỉ tiêu
giá thành.
12
- Chức năng thước đo bù đắp chi phí: Giá thành sản phẩm biểu hiện
những hao phí vật chất mà các doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm. Những hao phí vật chất này cần được bù đắp một
cách đầy đủ, kịp thời để đảm bảo yêu cầu tái sản xuất và đây đã trở
thành một vấn đề quan tâm đầu tiên của các doanh nghiệp bởi hiệu
quả kinh tế được biểu hiện trước hết ở chỗ doanh nghiệp có khả năng
bù lại những gì mình đã bỏ ra hay không. Đủ bù đắp là khởi điểm của
hiệu quả và là yếu tố đầu tiên để xem xét hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Chức năng lập giá: Giá cả SP được xây dựng trên cơ sở hao phí lao
động xã hội cần thiết, biểu hiện mặt giá trị SP. Khi xây dựng giá cả
thì yêu cầu đầu tiên là giá cả có khả năng bù đắp hao phí vật chất để
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, bảo đảm cho các doanh nghiệp trong
điều kiện sản xuất bình thường có thể bù đắp được hao phí để thực
hiện quá trình tái sản xuất. Để thực hiện được yêu cầu bù đắp hao phí
vật chất thì khi xây dựng giá cả phải căn cứ vào giá thành SP. Việc
đưa ra các định mức hao phí trong giá thành SP có ý nghĩa rất tích
cực khi sử dụng giá thành làm căn cứ để lập giá.
- Chức năng đòn bẩy kinh tế: Doanh lợi của doanh nghiệp cao hay thấp
phụ thuộc trực tiếp vào giá thành SP, hạ giá thành SP là biện pháp cơ
bản để tăng cường doanh lợi tạo nên tích luỹ để tái sản xuất mở rộng.
Phấn đấu hạ thấp giá thành bằng các phương pháp cải tiến tổ chức sản
xuất và quản lý, hoàn thiện công nghệ sản xuất, tiết kiệm CPSX là
hướng cơ bản để các doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong điêù
kiện nền kinh tế có cạnh tranh. Cùng với phạm trù kinh tế khác như
giá cả, lãi, chất lượng, giá thành SP thực tế đã trở thành đòn bẩy kinh
tế quan trọng thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường hiệu quả kinh
13
doanh phù hợp với nguyên tắc hạch toán kinh doanh trong điều kiện
cơ chế thị trường.
Hơn nữa, trong sản xuất kinh doanh, giá thành là chỉ tiêu phản ánh giới
hạn chi phí để tính toán, lựa chọn những phương án sản xuất tối ưu, do vậy
trong hạch toán kinh tế cần tính đúng, tính đủ giá thành dựa trên cơ sở khách
quan. Về lý luận cũng như trên thực tế, giá thành SP không chấp nhận tất cả
các CPSX mà chỉ chấp nhận những chi phí cần thiết trong sản xuất. Đây là
một trong những đặc điểm quan trọng của giá thành mà khi tính toán, người
làm công tác quản lý cần nắm rõ.
Như vậy, chúng ta đều thấy được chi phí, giá cả, giá thành, lợi nhuận là
những phạm trù kinh tế khách quan. Chúng tồn tại gắn liền với sự tồn tại của
quan hệ hàng hoá - tiền tệ và là đòn bẩy kinh tế quan trọng của quản lý kinh
tế, đồng thời chúng hợp thành một hệ thống thống nhất có mối quan hệ mật
thiết và tác động qua lại lẫn nhau trong nền kinh tế quốc dân. Sau đây ta xem
xét cụ thể mối quan hệ giữa CPSX và giá thành SP.
1.1.3. Mối quan hệ giữa CPSX và giá thành SP:
CPSX và giá thành SP là hai chỉ tiêu có quan hệ mật thiết với nhau, thể
hiện ở hai mặt:
- Xét về mặt nội dung: Giá thành SP sản xuất được tính trên cơ sở
CPSX đã tập hợp và số lượng SP hoàn thành trong kỳ báo cáo. Nội
dung giá thành SP là CPSX được tính cho số lượng và cho loại SP.
- Xét về mặt kế toán: Kế toán tập hợp CPSX và tính giá thành SP phân
xưởng là hai bước công việc liên tiếp và gắn bó hữu cơ với nhau. Tuy
nhiên, giữa CPSX và giá thành SP cũng có sự khác nhau rõ rệt. CPSX
và giá thành SP đều là hao phí lao động sống và lao động vật hoá
nhưng tính trong chỉ tiêu giá thành SP thì chỉ tính những hao phí cho
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét