CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH SUY GIẢM KINH TẾ TOÀN CẦU 
2008-2009, THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN THẾ GIỚI VÀ TỔNG QUAN VỀ THỦY 
SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
1.1 Khái quát về tình hình suy giảm kinh tế toàn cầu thời gian qua
1.1.1 Tổng quan về suy giảm kinh tế trên thế giới 2008-2009
 Theo Wikipedia- từ điển bách khoa toàn thư trực tuyến thế giới – gọi cuộc suy 
thoái toàn cầu 2008-2009 là cuộc suy thoái cuối thập niên 2000 (Late-2000s recession) 
để phân biệt với các cuộc suy thoái khác trong lịch sử.
 Suy thoái kinh tế cuối thập niên 2000 là cuộc suy thoái kinh tế và suy giảm tốc độ 
tăng trưởng kinh tế diễn ra đồng thởi ở nhiều nước và nhiều khu vực trên thế giới. Nó có 
nguồn gốc từ suy thoái kinh tế Hoa Kỳ cuối thập niên 2000 và khủng hoảng tài chính 
2007-2010.
 Bong bóng nhà ở của Hoa Kỳ dẫn tới khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp rồi 
phát triển thành một cuộc khủng hoảng tài chính mà hậu quả là tình trạng đói tín dụng 
ảnh hưởng tới khu vực kinh tế thực. Vỡ bong bóng nhà ở cũng dẫn tới suy giảm tiêu 
dùng cá nhân ở Hoa Kỳ. Sự bất trắc trong đời sống kinh tế và kinh doanh càng làm cho 
tiêu dùng và sản xuất bị hạn chế. Ba nhân tố này gây ra suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ từ 
năm 2008. Nhiều nước trên thế giới có các tổ chức tài chính đã tham gia vào thị trường 
tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Khi các tổ chức tài chính này bị thua lỗ, tình trạng rối 
loạn tài chính, thậm chí là tình trạng khủng hoảng tài chính đã xảy ra ở nhiều nước 
khiến cho các nước này rơi vào suy thoái kinh tế hoặc suy giảm tốc độ tăng trưởng. Do 
Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản là những thị trường xuất khẩu quan trọng của nhiều 
nước đang phát triển (nhất là khu vực Đông Á) nên suy thoái và suy giảm kinh tế từ thế 
giới phát triển đã làm giảm xuất khẩu của các nước đang phát triển. Đồng thời vì các 
nước phát triển là nguồn cung cấp các khoản vay ngân hàng, các khoản vốn đầu tư trực 
tiếp và gián tiếp cho các nước đang phát triển, nên khi các nước phát triển dừng cho vay, 
dừng giải ngân hay rút vốn về, nhiều nền kinh tế đang phát triển đã bị tác động tiêu cực 
nghiêm trọng.[25]
 
 Hình 1.1: Tốc độ tăng trưởng GDP hàng quí của thế giới
 (Đơn vị: phần trăm)
 (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:Word_GDP_Growth.png)
 Hình 1.1 cho ta thấy tốc độ tăng trưởng GDP hàng quí của thế giới từ năm 2005 
đến năm 2009. Trong giai đoạn từ năm 2005 đến 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế 
giới cũng như các nước phát triển và các nước đang phát triển tương đối ổn định. Tuy 
nhiên, bắt đầu từ năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới bắt đầu giảm mạnh, đặc 
biệt giai đoạn từ quí 2 năm 2008 đến quí 1 năm 2009, con số này luôn âm ở hầu hết các 
nền kinh tế trên thế giới. Cụ thể, giai đoạn từ năm 2005 đến 2007, tốc độ tăng trưởng 
kinh tế thế giới chỉ dao động trong khoảng 3,5-5,5%, trong đó các nước phát triển là 
1,5-3,5% và các nước đang phát triển là 7-10.5%. Năm 2008, thế giới chỉ tăng trưởng 
3.75%, sụt giảm 5% so với năm 2007, hơn 20 nước chính thức tuyên bố suy thoái, trong 
đó có Hoa Kỳ, Nhật Bản, và EU- đây cũng là lần đầu tiên 3 nền kinh tế lớn nhất thế giới 
cùng suy thoái kể từ năm 1945 đến nay; tăng trưởng tại các nền kinh tế mới nổi như 
Trung Quốc (Quí 1/2008: 10,6%; Quý 2/2008: 10,1%; Quý 3/2008: 9%), Ấn Độ (8,8-
7,9%), Hàn Quốc (5,86-3,63%), Thái Lan (6,05-3,96%)[] và các nước đang phát triển 
khác đều sụt giảm, trong đó có Việt Nam cũng chỉ ở mức 6,23%, mức thấp nhất trong 
thập kỉ qua. Suy thoái kinh tế tiếp tục gây ảnh hưởng nặng nề cho nhiều quốc gia vào 
đầu năm 2009, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm 2009 là 8,7%, (Quý 1/2009: 6,2%; 
Quý 2/2009: 7,9%; Quý 3/2009: 9.1%; Quý 4/2009: 10.7%)[2]; Việt Nam 6 tháng đầu 
năm 2009 là 3,76% so với cùng kỳ năm 2008 [3]. Theo nhận định của các chuyên gia 
kinh tế, như kinh tế gia trưởng Justin Lin củaWorld Bank, chuyên gia kinh tế của đại 
học tổng hợp New York – Nouriel Roubini thì đây là cuộc suy thoái tồi tệ nhất của kinh 
tế thế giới từ sau Đại khủng hoảng 1930.[25]
 Từ cuối năm 2009, kinh tế thế giới đã có những dấu hiệu phục hồi, tuy nhiên bên 
cạnh những nhà kinh tế lạc quan cho rằng kinh tế thế giới đang phục hồi theo hình chữ 
U, thì cũng không ít nhà kinh tế dự báo rằng, kinh tế thế giới chỉ tăng trưởng một thời 
gian sau đó lại đi xuống, có nghĩa là sẽ đi theo hình chữ W. Theo nhận định của cựu chủ 
tịch FED Alan Greenspan “thế giới sẽ còn phải trải qua những cuộc khủng hoảng tài 
chính nữa trong tương lai”. Nói về khủng hoảng, ông cũng cho biết thêm “ Đó là lẽ tự 
nhiên của con người. Trừ phi một ai đó có thể tìm ra cách thay đổi tự nhiên, chúng ta sẽ 
còn phải chứng kiến thêm những cuộc khủng hoảng nữa, và không một cuộc khủng 
hoảng nào trong số đó giống như lần khủng hoảng này. Bởi vì không có hai cuộc khủng 
hoảng nào lại có bất kì điểm chung gì, trừ lẽ tự nhiên của con người”.[14] 
1.1.2 Tác động của suy thoái tới kinh tế toàn cầu
1.1.2.1 Tác động tiêu cực
 Thương mại toàn cầu sụt giảm: Nhìn chung nhu cầu tiêu thụ ở các thị trường 
lớn trên thế giới giảm mạnh, đặc biệt là ở thị trường Mỹ vốn là thị trường xuất khẩu 
chính của nhiều nước, khiến thương mại bị ảnh hưởng mạnh. Theo Pasca Lamy – tổng 
giám đốc WTO thì “ thương mại thế giới đã sụt giảm 12% trong năm 2009”, mức giảm 
sút thấp nhất kể từ Đại chiến thế giới II [14]. Xuất khẩu của Đức, nước xuất khẩu lớn 
nhất thế giới trong tháng 12 năm 2008 đã giảm 3,7% sau khi giảm kỉ lục 10.8% trong 
tháng trước đó. Nhật Bản cũng rơi vào tình cảnh tương tự khi kim ngạch xuất khẩu của 
nước này đã giảm tới mức 35%, trong khi nhập khẩu cũng giảm mạnh. Khối lượng xuất 
nhập khẩu của Mỹ đã giảm 5 tháng liên tiếp và Trung Quốc- “công xưởng thế giới” kim 
ngạch xuất khẩu giảm 17,5 % ngay trong tháng 1/2009. Trong năm 2008, thương mại 
thế giới chỉ tăng ở mức 4% so với mức 5,5% trong năm 2007, thậm chí còn tăng trưởng 
âm trong tháng 11. Ông Lamy cũng nhận định rằng đầu năm 2010, thương mại toàn cầu 
đã có sự phục hồi khiêm tốn, tuy nhiên không thể xác định được sự khởi sắc này sớm 
kết thúc hay có thể kéo dài [14]. Thương mại toàn cầu giảm khiến nhiều ngành công 
nghiệp điêu đứng, kể đến như vận tải biển, sản xuất ô tô, xây dựng,… thêm vào đó là sự 
suy thoái về dịch vụ và tiêu dùng khiến những nước dựa chính xuất khẩu có nguy cơ sụt 
giảm kinh tế sâu hơn.
 Giá cả hàng hóa và nguyên vật liệu thô giảm: Sự tăng trưởng chậm lại của 
hai “đầu máy” kinh tế thế giới- trung tâm kinh tế Mỹ và nền kinh tế tăng trưởng nhanh 
nhất thế giới- Trung Quốc đã kéo theo sự sụt giảm mạnh nhu cầu của các loại hàng hóa 
như dầu, thực phẩm và khoáng sản, đồng thời nhu cầu yếu đi tại hầu hết các quốc gia đã 
gây sức ép giảm giá các mặt hàng khác. Suy thoái làm thương mại toàn cầu sụt giảm, 
sản xuất thu hẹp, vì vậy nhu cầu về nguyên liệu giảm sút, do đó kéo giá nguyên vật liệu 
thô giảm. So với mức giá cao hồi tháng 7/2008, chỉ số giá hàng hóa Dow Jones- AIG tại 
thị trường Mỹ vào giữa năm 2009 đã mất một nửa giá trị, nếu tháng 7/2008, giá dầu thế 
giới là 150USD/thùng thì trong quý II/2009 giá chỉ còn 50 USD/thùng. Không chỉ là giá 
dầu, mà giá những nguyên vật liệu khác cũng giảm mạnh, như giá kim loại, giá nông 
sản,… Giá cả hàng hóa và nguyên vật liệu thô giảm gây khó khăn cho những nền kinh 
tế đang phát triển vì nền kinh tế các nước này chủ yếu dựa vào xuất khẩu nguyên liệu 
thô.
Hình 1.2: Chỉ số giá dầu thô qua các năm
 (Nguồn:http://www.indexmundi.com/blog/index.php/2008/12/06/oil-price-index-chart/)
 Niềm tin của nhà đầu tư và người tiêu dùng sụt giảm: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã 
gây ra tình trạng thắt chặt thanh khoản và tín dụng trên Phố Wall, tình trạng này lan 
rộng ra thị trường tài chính nhiều nước. Một lượng trái phiếu bất động sản chứa đựng 
đầy rủi ro và nợ thế chấp của Mỹ đã được bán ra cho các nhà đầu tư nước ngoài, gây 
nên thất thoát tài chính do tình trạng vỡ nợ ở nhiều nơi tụ trên thế giới.
 Do thua lỗ nặng nề, các tập đoàn đa quốc gia bắt đầu cắt giảm đầu tư vào các nhà 
máy ở nhiều nơi trên thế giới. Thêm vào đó, các tập đoàn châu Âu cũng chịu tác động 
đặc biệt lớn do họ phụ thuộc vào các khoản vay ngân hàng nhiều hơn các doanh nghiệp 
Mỹ.
Bảng 1.1 Thiệt hại của một số ngân hàng, chức tài chính lớn trên thế giới tính
 đến tháng 5/2008
 (Đơn vị: tỷ USD)
UBS 37,7
Citygroup 24,1
Merrill Lynch 22,5
HSBC 17,2
Morgan Stanley 10,3
Bank of America 9,4
Deutssche Bank 7,0
JP Morgan Chase 2,9
Goldman Sachs 1,5
 (Nguồn: tổng hợp từ NYT, FT, Economist, AFP)
 Nhìn vào bảng tổng hợp có thể hình dung phần nào mức độ ảnh hưởng của cuộc 
khủng hoảng kinh tế Mỹ tới thế giới. Thiệt hại lớn nhất của ngân hàng số 1 Thụy Sĩ 
UBS với mức 37,7 tỷ USD. Những “ông lớn” khác trên thị trường tài chính thế giới. 
như Citygroup, HSBC,… cũng không thoát khỏi những con số thua lỗ nặng nề.
 Suy thoái kinh tế toàn cầu cũng đã gây nên sự sụt giảm mạnh mẽ của thị trường 
chứng khoán. Triển vọng kinh tế nghèo nàn ảnh hưởng đến niềm tin của các nhà đầu tư. 
Chỉ số chứng khoán của hầu hết các nền kinh tế phát triển và đang phát triển đều giảm 
nghiêm trọng khoảng 30-60% trong năm 2008, trong đó chỉ số VN-Index của Việt Nam 
giảm đến 65,9% cao nhất khu vực châu Á. Sự sụt giảm thị trường chứng khoán cũng 
đồng nghĩa với sự thu hẹp của thêm một kênh vốn đầu tư cho sản xuất, khiến sản xuất 
thêm trì trệ.
Bảng 1.2: Toàn cảnh chứng khoán thế giới 2008
Toàn cảnh chứng khoán thế giới 2008
Thị 
trường
Chỉ số Giá 
trị đóng 
cửa 30/12
Tăng/giảm 
so với năm 
2007(điểm)
Tăng/giảm 
so với 
2007(%)
Mỹ
Dow Jones 8.668,39 4.375,57 34,6
Nasdaq 1.550,70 1.058,93 41,5
S&P 500 890,64 556,52 39,3
Anh FTSE 100 4.392,68 2.024,02 31,5
Đức DAX 4.810,20 3.138,91 39,5
Pháp CAC 40 3.217,13 2.333,23 42,0
Đài Loan Taiwan 
Weighted
4.589,04 3.734,01 44,8
Nhật Nikkei 225 8.859,56 5.831,85 42,1
Hồng 
Kông
Hang Seng 14.235,50 13.325,02 48,8
Hàn Quốc KOSPI 
Composite
1.124,47 728,98 40,7
Singapore Straits 
Times
1.770,65 1.690,57 49,0
Trung 
Quốc
Shanghai 
Composite
1.832,91 3.428,65 65,2
Ấn Độ BSE 30 9.716,16 10.749,14 52,2
Australia ASX 3.591,40 2.842,70 44,1
Việt Nam VN-Index 316,32 604,75 65,9
Nguồn:CNBC, Thomson Reuters, Bloomberg
Hình 1.3 Biểu đồ tăng/giảm của một số chỉ số chứng khoán tiểu biểu năm 2008
 Nguồn: http://www.thethaovanhoa.vn/140N20090101082031426T0/chung-khoan-the-
gioi-2008-kho-tin-nhung-la-thuc-te!.htm
 
 Từ bảng và biểu đồ ta thấy năm 2008 là năm đánh dấu sự sụt giảm mạnh mẽ của các thị 
trường chứng khoán trên khắp thế giới thể hiện qua việc xuống điểm mạnh so với năm 
2007 của chỉ số chứng khoán tại các sàn trên thị trường thế giới. Tất cả các sàn đều 
giảm điểm trên 30% so với năm 2007, trong đó điều đáng buồn là chỉ số Vn-Index giảm 
mạnh nhất (-65,9%). Nhìn chung thị trường châu Á giảm điểm nhiều hơn hẳn so với thị 
trường Mỹ và Châu Âu, các thị trường châu Á đều giảm trên 40%, trong khi thị trường 
Mỹ và Châu Âu nằm trong khoảng từ 30-40%. Thị trường chứng khoán phản ánh sức 
khỏe nền kinh tế, trong khi các quốc gia châu Á đa số là các nước có nền kinh tế phụ 
thuộc vào xuất khẩu. Do đó, khi khủng hoảng xảy ra, thương mại toàn cầu giảm sút đã 
tác động rất lớn đến nền kinh tế các nước xuất khẩu.
 Trước những tin xấu của nền kinh tế toàn cầu, niềm tin của người tiêu dùng trên 
khắp thế giới cũng trở nên yếu đi hơn bao giờ hết, vì vậy đã ảnh hưởng tới sức mua 
người tiêu dùng trên thế giới.
Hình 1.4: Chỉ số giá tiêu dùng toàn cầu và chỉ số giá thực phẩm nông nghiệp
 toàn cầu
(Nguồn: Global trade overview by Adun Lem 
http://www.globefish.org/dynamisk.php4?id=4802)
Từ hình 1.2 ta thấy chỉ số giá tiêu dùng toàn cầu và chỉ số giá thực phẩm FAO cùng biến 
động theo hình chữ V ngược. Nếu như từ năm 2006 trở về trước, chỉ số này ở mức rất 
thấp, dưới 125, thì sau đó những con số này tăng liên tục và đạt đỉnh điểm vào giữa năm 
2008 (ở mức xấp xỉ 275), đây là giai đoạn nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng mạnh mẽ. 
Tuy nhiên sau đó, bắt đẩu từ giữa năm 2008 đến quý I/2009, 2 chỉ số này giảm nhanh, 
nguyên do là đây là giai đoạn nền kinh tế thế giới gặp khó khăn do ảnh hưởng của suy 
thoái kinh tế. 
 Một khi niềm tin của nhà đầu tư và người tiêu dùng trên thế giới giảm thì tất yếu 
sản xuất sẽ bị thu hẹp, ảnh hưởng đến quy mô kinh tế thế giới.
 Tỉ lệ thất nghiệp gia tăng mạnh: Hiện tượng đồng hành với suy thoái kinh tế là 
giảm khả năng đầu tư và nhu cầu tiêu dùng, kéo theo hàng loạt doanh nghiệp phá sản 
hoặc thu hẹp sản xuất kinh doanh. Hệ quả là tỉ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên. Tại Mỹ- nơi 
bắt nguồn của sự suy thoái, tình trạng mất việc làm là khắc nghiệt nhất. Thị trường lao 
động ở Mỹ đã mất đi 5,1 triệu việc làm từ khi kinh tế bắt đầu đi xuống vào cuối năm 
2007. Trong tháng 3/2009, tỉ lệ thất nghiệp tại Mỹ lên đến 8,8%- mức cao nhất trong 
vòng 25 năm trở lại, trong đó, ngành công nghiệp mất 305.000 việc, dịch vụ là 358.000 
việc [12]. Tháng 1/2009, tỉ lệ thất nghiệp của toàn châu Âu là 7,6%, trong đó khu vực 
đồng EU là 8,2%. Ở các nước đang phát triển, con số này cũng gia tăng, Trung Quốc- 
đất nước với dân số đông nhất thế giới đã có 20 triệu lao động nông thôn mất việc làm ở 
thành phố; ở Ấn Độ hơn nửa triệu việc làm bị biến mất trong ba tháng cuối năm 2008. 
Suy thoái kinh tế kéo theo nhu cầu nhập khẩu lao động của các nước trên thế giới giảm, 
chính phủ Malaysia đã tìm cách cắt giảm lao động nước ngoài mỗi năm 400.000 người 
kể từ năm 2008. Tỉ lệ thất nghiệp tăng cao ở các nước đang phát triển dẫn đến nguy cơ 
đói nghèo gia tăng.
 Bảng 1.4: Tỉ lệ thất nghiệp ở một số quốc gia trong tháng 11, 12 năm 2008
 (Đơn vị: phần trăm)
Tháng 11/2008 Tháng 12/2008
Anh 3,3% 3,6%
Croatia 13,2% 13,7%
Đan Mạch 1,9% 2,1%
Đức 7,7% 7,8%
Hà Lan 3,8% 3,9%
Na Uy 2% 2,6%
Rumani 4,1% 4,4%
Thụy Điển 6,2% 6,4%
Thụy Sĩ 2,7% 3%
(Nguồn: Bài “Tình trạng thất nghiệp tại 15 nước” 
http://www.nhandan.org.vn/tinbai/?top=45&sub=84&article=141044)
 Bảng trên cho thấy tình trạng thất nghiệp tại 10 nước châu Âu trong tháng 11, 12 
năm 2008. Liên tiếp trong 2 tháng cuối năm 2008, tỉ lệ thất nghiệp ở các nước trên gia 
tăng từ mức 0,1%-0.6%. Nếu như năm 2008, tỉ lệ thất nghiệp thế giới là 5,7% thì trong 
năm 2009 con số này đã lên đến 6,2%.
 Theo ILO- tổ chức lao động quốc tế đưa ra nhận định khủng hoảng kinh tế có thể 
làm tăng thêm 51 triệu người thất nghiệp, trong năm 2009 toàn thế giới sẽ có tới 230 
triệu người không có việc làm. Tình trạng thất nghiệp tăng làm tăng thêm gánh nặng 
kinh tế đối với từng gia đình, cá nhân, gây nên những bất ổn về mặt xã hội. 
 Nguy cơ gia tăng bảo hộ mậu dịch trên thế giới: Trong suốt thế kỉ 20, xu hướng 
toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, làm cho các nước xích lại gần nhau, cùng hợp tác, phát 
triển. Tuy nhiên, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, toàn cầu hóa lại là một nguyên 
nhân gây nên phát tán khủng hoảng, dẫn đến nguy cơ về sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo 
hộ mậu dịch. Các nước đã đưa ra các gói kích thích kinh tế lớn và khuyến khích dùng 
hàng nội để giảm bớt gánh nặng cho nhà sản xuất. Tại Mỹ, chính quyền đã tung ra gói 
kích thích kinh tế trị giá hơn 900 tỷ USD, trong đó có điều khoản “Người Mỹ dùng hàng 
Mỹ”, theo đó Chính phủ nước này không cấp ngân sách cho bất cứ dự án xây dựng, 
nâng cấp hay sửa chữa công trình công cộng nào nếu không sử dụng toàn bộ sắt thép 
hay hàng hóa sản xuất trong nước. Liên minh châu Âu cũng đưa ra chính sách trợ cấp 
xuất khẩu cho sản phẩm sữa, hay tại Pháp, tổng thống Nicolas Sarcozy đề nghị gói hỗ 
trợ 5 tỷ cho các nhà sản xuất ô tô vơí điều kiện chỉ sử dụng các thành phần sản xuất ở 
Pháp và sử dụng nhân công bản địa. Tại Châu Á, nhiều nước cũng áp dụng những hình 
thức bảo hộ riêng, tại Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia đã trục xuất hàng vạn lao động 
ngoại quốc về nước, hay ở Indonesia- nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á, chinh quyền 
đã yêu cầu người dân trong nước, đồng thời ban hành nhiều biện pháp nhằm hạn chế 
nhập khẩu các mặt hàng như điện tử, thực phẩm, và thời trang [10].
 Trên thực tế, việc bảo hộ mậu dịch đi ngược lại quá trình tự do hóa thương mại 
toàn cầu, đặc biệt là tác động tiêu cực đến các nền kinh tế lệ thuộc vào xuất khẩu. Bảo 
hộ kinh tế khiến suy thoái kinh tế toàn cầu trầm trọng hơn, cuộc Đại khủng hoảng 1930 
là minh chứng cho điều đó. Tuy nhiên, các nước trên thế giới vẫn đưa các những biện 
pháp để bảo vệ nền sản xuất của nước mình trong bối cảnh suy thoái kinh tế.
 Khó khăn trong việc điều hành chính sách để đối phó với suy thoái: Thông 
thường khi nền kinh tế có dấu hiệu bất thường, ngân hàng trung ương các nước thường 
phản ứng nhanh để đối phó với những dấu hiệu đó. Có nhiều người tin rằng khi khủng 
hoảng kinh tế xảy ra, các ngân hàng trung ương có thể cứu thế giới thoát khỏi khủng 
hoảng. Chẳng hạn như thời kì suy thoái 2001, FED đã cắt giảm lãi suất từ 6,5% xuống 
còn 1%, ngân hàng trung ương châu Âu ECB giảm lãi suất từ 4% xuống còn 2%, ngân 
hàng trung ương Nhật BOJ giảm lãi suất xuống 0%[13]. Tuy nhiên, ngày nay lạm phát 
tăng cao khiến khả năng của các ngân hàng trung ương trong việc sử dụng các công cụ 
tiền tệ để kích thích tăng trưởng và giảm bớt suy thoái bị hạn chế rất nhiều. 
 Khi khủng hoảng xảy ra, hầu hết các ngân hàng trung ương đều cắt giảm lãi suất, 
đồng tiền trong nước mất giá, những nhà xuất khẩu trong nước được lợi. Tuy nhiên, 
nhìn nhận ở góc độ toàn cầu, điều này ảnh hưởng xấu đến khả năng cạnh tranh và tăng 
trưởng của những đối tác thương mại với nước đó. 
 Trong bối cảnh suy thoái, nhu cầu của người dân giảm sút mạnh mẽ trong khi 
nguồn cung hàng hóa, nhà cửa rất dư dả, do đó, phải tốn khoảng thời gian dài để người 
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét