Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
TIỂU LUẬN QUÂN SỰ
I. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG VÀ KHÔNG QUÂN 
THẾ GIỚI
Máy bay là loại phương tiện bay nặng hơn không khí, có động cơ và có khả năng 
bay trong khí quyển nhờ các lực nâng khí động học.
Có loại máy bay cánh nâng cố định, có loại máy bay cánh nâng quay hay máy bay 
trên đệm khí hở, máy bay xuồng.
Sự phát triển của máy bay là đỉnh cao của trí tuệ con người. Chế tạo máy bay và vận 
chuyển hàng không đang nằm trong những ngành khoa học về công nghệ chính. 
Năm 1783, khí cầu bơm bằng khí nóng đầu tiên ra đời. Mặc dù không phải là máy 
bay song nó cũng cho phép con người lần đầu tiên bay lên không trung. Đột phá căn 
bản trong thiết kế máy bay diều ra đời vào năm 1799, với mẫu của Cayley. Từ đó, lực 
nâng và lực đẩy được tách biệt hoàn toàn. Lực đẩy do một cơ cấu động lực riêng. Năm 
1804 xuất hiện máy bay cánh cố định, thực chất đó là một tàu lượn không người lái 
phóng bằng tay được làm bằng gỗ và giấy. Tàu lượn này dài một mét, có một cánh nâng 
cố định, thân và đuôi, với các cánh đuôi thẳng đứng và nằm ngang như những máy bay 
ngày nay. 
Tuy nhiên, phải mãi đến năm 1891 mới ra đời tàu lượn có người lái đầu tiên trong 
lịch sử. Do Gohlitwtal người Đức thiết kế và bay thử đã thành công. Rồi sau một loạt 
thử nghiệm với hầm gió, năm 1902 hai anh em Wright người Mỹ đã chế tạo và cho bay 
thử thành công một tàu lượn. Ngày 17/12/1903, họ đã thực hiện được chuyến bay đầu 
tiên bằng phương tiện bay nặng hơn không khí có động lực và có người điều khiển. Đặc 
biệt họ đã sáng tạo ra hệ thống điều khiển với các dây cáp, cần lái bàn đạp thay cho 
cách điều khiển bằng thay đổi tư thế và trọng tâm người lái như với làu lượn trước đây.
Đến cuối chiến tranh thế giới thứ nhất , máy bay đã được thiết kế hợp lý một cách 
đáng kể, bằng cách giảm lực cản khí động và tăng công suất động cơ để có độ cao và 
vận tốc lớn hơn. Cuộc chạy đua chế tạo các máy bay có vận tốc lớn bắt đầu từ năm 
1927, như chuyến bay xuyên Đại Tây Dương một mình của Lindberg.
Từ 1913 đến 1931, vận tốc cực đại của máy bay đã tăng gấp hơn 5 lần, từ 74km/h 
với máy bay cánh đơn (máy bay Deperdussin của Pháp) lên tới 386 Km/h (máy bay 
Supermarine 5.6B) . Cũng từ thời kỳ này máy bay cánh cố định đã có dáng dấp như 
ngày nay. Thân được bọc kín, kết cấu chắc chắn, hình thuôn, ít chịu lực cản, cấu tạo 
1
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
cánh đơn dài. Thời kỳ này, máy bay ngoài nhiệm vụ chở quân đội, vũ khí, khí tài còn 
chở bom và được trang bị thêm súng máy. Đồng thời hàng loạt kiểu máy bay chiến đấu 
chuyên dụng ra đời. Có loại máy bay ném bom đường dài, máy bay ném bom bổ nhào, 
máy bay cường kích- chi viện trực tiếp cho lực lượng mặt đất, và máy bay tiêm kích- 
chuyên để chống máy bay. 
Những trận không chiến đầu tiên đã diễn ra trên bầu trời Tây Ban Nha thời nội chiến 
1936-1939. Đến chiến tranh thế giới thứ hai, đã xuất hiện các tập đoàn không quân tập 
trung cho các trận đánh lớn. Tiếp đó là giai đoạn máy bay phản lực, bắt đầu từ 8-1939, 
mở đầu là cuộc bay thử của máy bay phản lực He-178 do Đức chế tạo. Do tác dụng của 
động cơ phản lực cộng với những cải tiến hợp lý khác (cánh cụp) khiến máy bay ngày 
càng bay nhanh và có tốc độ tiếp cận vận tốc truyền âm. Tới tháng 10 năm 1947 máy 
bay thử nghiệm Bell X-l có người lái bay nhanh hơn tiếng động. Từ những năm 1950, 
các máy bay chiến đấu phản lực quân sự đã bay nhanh gấp 2÷3 lần tốc độ truyền âm 
(2÷3M). Cuộc chiến tranh Triều Tiên là nơi Mỹ đã sử dụng máy bay chiến đấu phản lực 
đầu tiên. Máy bay phản lực siêu âm ngày càng được nhiều nước trên thế giới sử dụng 
với quy mô lớn. Trong đó có loại vận tốc cao nhất (>3M) là máy bay trinh sát chiến l-
ược SR-71 của Mỹ. Trong chiến tranh ở Việt Nam lần đầu tiên máy bay tác chiến điện 
tử chuyên dụng kiểu EB-66 đã được Mỹ sử dụng. 
Thời gian từ sau đại chiến thứ II đến nay được gọi là kỷ nguyên vàng của ngành 
hàng không với sự phát triển tới đỉnh cao của nó. Tuy các chuyến bay vũ trụ đã thay thế 
vị trí chiếm lĩnh không gian độc tôn của nó, song thực tiễn lịch sử đã khẳng định vai trò 
của máy bay trong đời sống hàng ngày cũng như trong quân sự. Thời gian gần đây các 
nhà thiết kế máy bay đã thử nghiệm các dáng vật liệu và hệ thống động lực mới, tạo ra 
những máy bay cánh quay (máy bay tạo lực nâng bằng cánh quay-máy bay trực thăng) 
và những phương tiện có thể bay như máy bay đồng thời cho phép cất hạ cánh thẳng 
đứng, hoặc cho phép chuyển hướng luồng phụt của động cơ (như máy bay Harrier của 
Anh). 
 Những phát triển vượt bậc của máy bay, cũng như ngành hàng không thế giới ta có 
thể thấy không quân đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong quân đội của tất cả các 
nước trên toàn thế giới 
Có thể nói: “Trong lịch sử các cuộc chiến tranh, không quân đóng vai trò hầu 
như quan trọng nhất, nó quyết định đến sự thành bại của mỗi cuộc chiến.”
Điều đó có thể được thấy cụ thể qua những cuộc chiến
1. Trong chiến tranh thế giới lần thứ II.
2
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Trong chiến tranh thế giới lần thứ II, không quân Liên Xô đã tiêu diệt khoảng 95% 
tổng số máy bay chiến đấu của Đức. Kết quả đó đã tạo điều kiện cho Không quân Liên 
Xô giành ưu thế chiến lược trên không từ 1943 và giữ được ưu thế đó cho đến khi kết 
thúc chiến tranh. Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu chiến tranh, Không quân Liên Xô bị tổn 
thất nặng vì: 
- Chỉ trong một thời gian 18 ngày (22 - 6 ÷ 10 -7 - 1941), Không quân Đức đã giành 
được ưu thế chiến lược trên không, tạo thuận lợi cho quân Đức nhanh chóng tiến công 
vào sâu lãnh thổ Liên Xô. Tương quan lực lượng chung của Không quân hai bên là 2/1 
nghiêng về phía Không quân Đức (Liên xô có 1970 máy bay, Đức có 4000 máy bay). 
- Không quân Đức đã hoàn thiện chiến lược tiến công, trong khi Không quân Liên 
Xô vẫn hành động bảo thủ theo chiến lược phòng ngự. Đức áp dụng nguyên tắc chỉ huy 
tập trung, Liên Xô theo nguyên tắc phi tập trung. 
- Không quân Liên Xô có rất ít máy bay mới, đội ngũ phi công chưa được huấn 
luyện tốt.
- Bộ chỉ huy quân sự Liên Xô bố trí những máy bay mới tập trung tại các sân bay 
gần biên giới Đức, nên bị Không quân Đức đánh thiệt hại nặng.
2. Trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 (Chiến dịch Bão táp sa mạc)
Trong chiến dịch này Mỹ và đồng minh đã đặt hy vọng chủ yếu vào các đòn tiến 
công bằng không quân. Mỹ và liên quân đã tập trung một lực lượng lớn, bao gồm 2600 
máy bay chiến đấu và trực thăng hiện đại, trong đó có 1800 máy bay của Mỹ. Chiến 
dịch kéo dài 6 tuần (từ 1-1991 đến 2-1991) thì 5 tuần đầu Mỹ và liên quân dùng không 
quân để không kích Irắc. 
Trong chiến dịch không kích, lưu lượng trên không của chiến trường rất dày đặc, với 
đủ loại máy bay và trực thăng của nhiều quân chủng và nhiều nước tham gia, nhưng 
nhờ có hệ thống quản lý vùng trời làm việc rất hiệu quả nên không xảy ra một vụ tai 
nạn máy bay nào. Không quân đã thực hiện tốt nhiệm vụ của họ.
Không quân đã phá huỷ làm tê liệt hệ thống chỉ huy quân đội của Irắc, chế áp và tiêu 
diệt hệ thống phòng không, chế áp và phá huỷ các sân bay, phá sập các cầu cống, đường 
giao thông các trạm rađa, các trận địa pháo và gây khó khăn cho lực lượng Irắc vận 
động trên chiến trường.
Ngoài ra Mỹ đã phóng 290 quả tên lửa hành trình Tomahawk từ tàu ngầm và tầu 
chiến hạm vào các mục tiêu quân sự và dân sự của Irắc, với xác suất trúng đích lên đến 
90%.
Cơ quan tổng kiểm toán (GAO) của Mỹ, năm 1997 đã tổng kết, đánh giá hiệu quả 
của chiến dịch "bão táp sa mạc" 1991 của không quân Mỹ và liên quân như sau:
3
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
- 43% trong tổng số 2665 xe tăng thuộc 12 sư đoàn của Irắc bị tiêu diệt, trước khi 
cuộc tiến công trên bộ bắt đầu, cùng với 32% trong tổng số 2624 xe thiết giáp chở quân. 
- Trong tổng số 724 máy bay cánh cố định của Irắc, chỉ có 290 chiếc bị tiêu diệt, 121 
chiếc chạy thoát sang Iran và 313 chiếc sống sót.
- Hệ thống phòng không của Irắc đã bắn rơi được 11 máy bay của Mỹ và liên quân 
trong 3 ngày cuối của cuộc chiến tranh. 
Trong chiến tranh vùng Vịnh, sau 38 ngày không kích, Mỹ và liên quân đã đưa 
70.000 lục quân (4.100 xe tăng, thiết giáp) và 7.500 hải quân đánh bộ vào tham chiến. 
Không quân đã chi viện cho lực lượng lục quân và hải quân đánh bộ mở các cuộc tấn 
công trên bộ. Chiến tranh trên bộ đã giành được thắng lợi trong 4 ngày là nhờ trước đó 
không quân đã tiến hành oanh kích 5 tuần liền. 
Cũng có một vài nhân tố khác góp phần vào sự sụp đổ của quân đội Irắc, bao gồm 
cả khả năng chỉ huy và tinh thần chiến đấu kém. Các phi công Irắc thể hiện kỹ năng 
chiến đấu rất thấp. Trong các cuộc không chiến, đôi khi họ không thực hiện nổi động 
tác cơ động tránh né đơn giản nhất. Họ lái những chiếc máy bay hiện đại, nhưng không 
khai thác được những tính năng ưu việt của chúng, và đó là nhược điểm, bất lợi trong 
chiến đấu.
Các cuộc tấn công của không quân đã làm cho Irắc không thể thực hiện phòng ngự 
hiệu quả. Các đợt oanh kích dồn dập vào các đơn vị, mục tiêu của Irắc đã tạo một đòn 
tâm lý choáng váng, trong khi tổn thất của không quân Mỹ là không đáng kể. 
3. Trong cuộc chiến tranh Balkan của Mỹ và NATO không kích Nam Tư 1999
Chiến dịch có tên “Sức mạnh đồng minh” này kéo dài 78 ngày đêm, bắt đầu từ 24-3-
1999. Đây là bước phát triển mới so với cuộc chiến tranh ở Irắc năm 1991. Trong chiến 
dịch này Mỹ và NATO đã sử dụng một số lượng lớn chưa từng có về vũ khí và phương 
tiện kỹ thuật quân sự, trong đó nổi bật là vai trò của không quân. Trong chiến tranh 
Nam Tư, Mỹ - NATO đã tận dụng trinh sát từ vệ tinh (50 vệ tinh), các loại máy bay 
trinh sát U-2, RC-135, E-SA, máy bay chỉ huy - kiểm soát báo động sớm trên không 
AWACS, máy bay tác chiến điện tử EC-130, thiết bị quan sát chụp ảnh của các máy bay 
chiến đấu và phương tiện bay không người lái, các Sensor mang trên tên lửa, bom, 
đạn Tất cả liên kết thành một hệ thống, đảm bảo cho chiến trường trở nên “trong 
suốt” cả đêm lẫn ngày.
Trong cuộc chiến tranh này, quan điểm cốt lõi của Mỹ - NATO là sử dụng không 
quân mang vũ khí chính xác cao tiến công các mục tiêu quan trọng nhất và sử dụng vũ 
4
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
khí thông thường để tiến công các mục tiêu khác. Khi sử dụng vũ khí chính xác cao, yêu 
cầu về số lượng máy bay chiến đấu giảm từ 2 đến 5 lần. 
Trong chiến tranh Việt Nam, từ 1965 ÷ 1968 không quân Mỹ bị tổn thất gần 100 
máy bay, nhưng không phá được cầu Hàm Rồng (Thanh Hoá), nhưng ngày 13-5-1972, 
với một tốp máy bay ném bom điều khiển bằng laze (từ độ cao 4200m, cách mục tiêu 
3000 ÷ 4000m.) đã phá hỏng cầu, mà không có máy bay nào bị bắn rơi.
Điều đáng chú ý là, nếu như trong chiến tranh vùng vịnh (1991) Mỹ và liên quân 
mới sử dụng gần 8% vũ khí điều khiển chính xác thì trong chiến dịch "Con cáo sa mạc” 
(12-1998) con số đó là 50% và trong chiến tranh Nam Tư, Mỹ - NATO đã sử dụng vũ 
khí điều khiển chính xác là 98%. 
Để không kích Nam Tư, Mỹ - NATO đã sử dụng với số lượng lớn máy bay tiêm 
kích tàng hình F117A, máy bay ném bom chiến lược tàng hình B2, máy bay ném bom 
chiến lược đa năng tầm xa dạng cánh thay đổi B1B, máy bay ném bom chiến lược B52, 
các loại máy bay tiêm kích đa năng: F14, F15, F16, F/A18, máy tiêm cường kích 
MIRAGE F-1, máy bay tiêm kích đánh chặn đa năng MIRAGE 2000, mấy bay tiêm cư-
ờng kích TORNADO và máy bay tiếp dầu đa năng KC135, máy bay trực thăng vũ 
trang AH64 APACHE, máy bay trực thăng vận tải hạng trung CH47.
Ngoài máy bay Mỹ-NATO còn sử dụng một số lượng lớn tên lửa hành trình 
Tomahawk cải tiến, các loại bom, đạn "tinh khôn".
Các loại máy bay B2, F117A có tầm hoạt động toàn cầu (nếu được tiếp dầu trên 
không). Máy bay F117A được lắp hệ thống quản lý bay 4 chiều, bản đồ số di động, bộ 
cảm biến chỉ thị và bắt mục tiêu hồng ngoại, hệ thống đạo hàng quán tính INS, hệ thống 
đạo hàng theo vệ tinh toàn cầu GPS. Máy bay F117A có diện tích phản xạ hiệu dụng 
0,0025m
2
. Máy bay B2 được lắp hệ thống định vị toàn cầu, có chế độ tự động bay bám 
len lỏi theo địa hình, hệ thống dẫn đường quán tính kết hợp dẫn bằng vệ tinh GPS. 
Trong các chiến dịch đánh đêm vào Nam Tư, ngay từ ngày đầu 24-3- 1999, 2 máy bay 
B2 đã ném bom từ độ cao lớn với sự hỗ trợ của hệ thống định vị toàn cầu GPS. Máy 
bay B2 cắt cánh từ căn cứ không quân (sân bay Mitxuri) trên đất Mỹ, vượt Đại Tây D-
ương trong 30h. Máy bay B2 mang được 16 tấn bom có điều khiển dùng để công kích 
chính xác các trạm rađa phòng không cố định. Độ chính xác của bom từ 3÷13m, bom có 
trọng lượng 907 kg. Bom JDAM được điều khiển nhờ hệ thống định vị toàn cầu GPS 
trong mọi điều kiện thời tiết, ngày, đêm… Máy bay B2 là loại máy bay siêu tàng hình, 
có diện tích phản xạ hiệu dụng 0,001 m2… Tên lửa Tomahawk có tầm bắn 900 ÷ 
2500km, tên lửa có hệ thống tự dẫn đường bằng kỹ thuật ảnh hồng ngoại hoặc rađa 
laze, có thể nhận biết, lựa chọn mục tiêu điểm, hoặc dùng hệ dẫn quán tính, bay bám 
5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
theo địa hình, hệ thống điều chỉnh và tương hợp địa hình số hoá kết hợp với hệ định vị 
toàn cầu GPS, sai số trong vòng 9m.
Về cách đánh của Mỹ và NATO trong cuộc chiến theo kiểu leo thang đã được tính 
toán rất kỹ. Lúc đầu Mỹ và NATO chỉ huy động khoảng 400 máy bay các loại, nhưng 
sau hơn một tháng (đầu tháng 5-1999) đã huy động tới 1000 chiếc máy bay các loại 
(riêng Mỹ có 650 chiếc), số lượng tên lửa hành trình cũng tăng thêm, các tàu chiến, tàu 
bảo đảm cũng được điều động ngày càng tăng tới vùng biển Adrialic. Về mục tiêu đánh 
phá, lúc đầu chỉ tập trung vào các mục tiêu quân sự (các trận địa phòng không, doanh 
trại quân đội, các sở chỉ huy, sân bay quân sự nhà máy quốc phòng ) sau chúng chuyển 
sang đánh các mục tiêu đần sự, kinh tế, đầu mối giao thông, cầu cống, các bệnh viện, 
trường học… Bom đạn của Mỹ và NATO đã giết hại, làm bị thương hàng nghìn dân 
thường trong đó có nhiều cụ già, phụ nữ và trẻ em. Đúng vào ngày quốc tế lao động l-5, 
tên lửa của Mỹ và NATO đã bắn trúng một xe buýt chở khách đang đi trên một chiếc 
cầu cách thủ phủ Prextina của Côxôvô 21km, làm ít nhất 60 người chết, chủ yếu là dân 
thường và người nước ngoài. Từ đánh xa thủ đô tiến tới đánh gần thủ đô, sau đó đánh 
thẳng vào thủ đô, tập trung chủ yếu vào các cơ quan lãnh đạo đầu não và phương tiện 
thông tin truyền thông của Nam Tư, sau đó đánh tất cả các mục tiêu trên toàn lãnh thổ 
Nam Tư.
Qua cuộc chiến tranh, theo thống kê chưa đầy đủ, Nam Tư đã bắn rơi 32 máy bay 
các loại của Mỹ và NATO. Đã có 88 binh sĩ NATO bị mất tích, khoảng một nửa trong 
số đó là lính Mỹ, 11 lính Đức, 8 lính Pháp, 7 lính Anh và 18 binh sĩ của các nước thành 
viên NATO khác. 
Tổng kết lại, trong cuộc chiến Nam Tư, bằng tiến công đường không, Mỹ - NATO 
sau hơn một tháng đã phá huỷ hơn 200 mục tiêu, làm Nam Tư thiệt hại hơn 200 tỷ USD 
mà chỉ tiêu tốn khoảng 3 tỷ USD.
Các phương tiện mang bom, đạn, tên lửa xuất phát từ xa hàng nghìn, vạn km, 
phóng (thả) từ cự ly an toàn. Trinh sát mục tiêu, tổ chức chỉ huy hiệp đồng, điều khiển 
hoả lực, tác chiến điện tử, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật… đều được thực hiện từ xa, 
không trực tiếp tiếp xúc trên chiến trường. Điều này cho phép giảm thiểu phí tổn, tăng 
tính kịp thời, tránh tổn thất, giảm cảm giác sợ hãi cho quân nhà, tránh vấn đề nhạy cảm 
về nhân đạo trong phản đối chiến tranh, thay thế sự hiện diện của bộ binh, xe tăng 
trực tiếp trên chiến trường, giảm thiểu khả năng sa lầy, gây khó khăn, phức tạp trong 
phòng chống, giảm khả năng đánh trả của đối phương.
Với vũ khí điều khiến chính xác từ xa, tất cả các mục tiêu ở bất kỳ khu vực nào của 
đất nước đều có thể bị tiến công, chiến tuyến các cấp (chiến thuật, chiến dịch, chiến 
6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
lược) không được phân định. Muốn chống trả sự xâm lược bằng vũ khí đường không 
cần có hệ thống phòng không toàn quốc, phát hiện mục tiêu trên không cách xa mục 
tiêu cần bảo vệ hàng trăm, hàng nghìn km mới đủ thời gian chuẩn bị đánh trả.
Các đòn tiến công được thực hiện từ xa, trên các hướng, độ cao hoàn toàn khác 
nhau, chúng được tập trung lại theo yêu cầu tác chiến, thay vì sử dụng ồ ạt, mật độ lớn 
của đội hình phương tiện tiến công hoặc sô lượng lớn bom đạn, tên lửa vào một mục 
tiêu, thường chỉ sử dụng tốp nhỏ, chiếc lẻ tiến công chính xác để diệt các mục tiêu 
điểm.
Trong cuộc chiến tranh Nam Tư, bằng sức mạnh của không quân, Mỹ - NATO đã 
tàn phá các cơ sở kinh tế, huỷ hoại tiềm lực quân sự, làm mất khả năng và cả ý chí 
chiến đấu của Nam Tư.
Qua cuộc chiến tranh Nam Tư, ta thấy nổi lên những đặc điểm tác chiến mới của 
nước có tiềm lực quân sự mạnh đối với nước yếu hơn đó là:
Không kích và không kích theo kiểu ''phẫu thuật ngoại khoa'' bằng vũ khí công nghệ 
cao có độ chính xác cao đã trở thành một phương thức chiến tranh hiện đại. Đánh chính 
xác từ xa, không chiến tuyến, không trực tiếp tiếp xúc, không cân xứng đã trở thành 
dạng thức cơ bản của nước có lực lượng quân sự hùng mạng răn đe vũ lực đối với một 
nước có lực lượng quân sự yếu kém hơn.
II. KHÔNG QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM
 Trong kháng chiến chống Mỹ, không quân làm nhiệm vụ tác chiến phòng không, bảo 
vệ miền Bắc XHCN và chi viện cho miền Nam. Trong thời kỳ hiện nay, yêu cầu xây 
dựng lực lượng không quân đòi hỏi lớn hơn trước rất nhiều vì đây là lực lượng tiến 
công, yểm trợ, bảo vệ, chi viện cho các chiến trường, các binh đoàn trên bộ, trên biển. 
Nhiệm vụ này đòi hỏi phải xây dựng và phát huy truyền thống quí báu của các thế hệ đi 
trước đã xây dựng lên.
1. Sự hình thành và phát triển của không quân Việt Nam :
Lực lượng không quân của ta mới chỉ được bắt đầu xây dựng từ tháng 10- 1954 khi 
ta tiếp quản các sân bay của Pháp ở miền Bắc.
Ngày 3-3-1955, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng quốc phòng nước 
VNDCCH ký quyết định số 15/QĐA thành lập “Ban nghiên cứu sân bay" mang phiên 
hiệu C-47 do Đồng chí Trần Quý Hai làm trưởng ban, đến cuối 1958 đổi thành cục 
không quân.
Ngày 1-5-1959 đội bay vận tải đầu tiên được thành lập và sau này trở thành trung 
đoàn 919 - trung đoàn không quân đầu tiên của quân đội ta. Cùng với việc thành lập 
7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
trung đoàn 919 một cơ sở sửa chữa máy bay và một lớp đào tạo thợ máy bay cũng ra 
đời. 
Ngày 30-5-1963 thay mặt bộ trưởng quốc phòng, trung tướng thứ trưởng Hoàng 
Văn Thái đã ký quyết định số 1 8/QĐ thành lập trung đoàn không quân tiêm kích, mang 
phiên hiệu trung đoàn không quân 921 .
Ngày 3-2-1964 tại sân bay Mông Tự (Trung Quốc), "Lễ ra mắt chính thức công khai 
của trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên của không quân NDVN được tiến hành" 
đánh dấu sự hình thành và phát triển của không quân chiến đấu Việt Nam.
Ngày 10-3-1977 quân chủng không quân được thành lập là 1 trong 4 quân chủng 
quân đội NDVN.
Ngày nay quân chủng phòng không và quân chủng không quân hợp nhất lại là: Quan 
chủng phòng không - không quân. Từ một đội bay vận tải (1954) đến một trung đoàn 
không quân tiêm kích (1964), ngày nay không quân ta đã trở thành một lực lượng hoàn 
chỉnh trong quân chủng PK - KQ bao gồm:
- Các sư đoàn không quân tiêm kích, tiêm kích bom.
- Các trung đoàn máy bay vận tải, trực thăng, trực thăng vũ trang.
- Hệ thống sân bay nằm trên các địa bàn quan trọng trên phạm vi cả nước, đảm bảo 
cho tất cả các loại máy bay hiện đại hạ cánh, cất cánh.
- Hệ thống các nhà máy, kho tàng hiện đại, có thể sửa chữa lớn các loại máy bay và 
sản xuất phụ tùng thay thế.
- Hệ thống các nhà trường đào tạo phi công, cán bộ tham mưu, cán bộ kỹ thuật có 
trình độ đại học và sau đại học.
Như vậy, ta có thể thấy rằng lực lượng Không quân Nhân dân Việt Nam đã có 
những bước phát triển nhanh và rất vững chắc.
2. Truyền thống vẻ vang của không quân Việt Nam
Từ 1959÷1964, tuy còn non trẻ, không quân ta đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan 
trọng như: bay chuyên cơ, vận chuyển trong nước và quốc tế. Đặc biệt. trong những 
năm 1960÷962, không quân ta đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ bay tiếp tế, thả dù, phục 
vụ có hiệu quả nhiệm vụ chiến đấu trên chiến trường Đông Dương. 
Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của không quân đế quốc 
Mỹ, không quân Việt Nam non trẻ phải đương đầu với một đối tượng tác chiến dày dạn 
kinh nghiệm, có số lượng đông, được huấn luyện bài bản, có trang bị kỹ thuật hiện đại.
Khi bước vào cuộc chiến đấu với không quân nhà nghề Mỹ, không quân ta chỉ có 
một số lượng ít ỏi máy bay MIG-17 của trung đoàn không quân tiêm kích 921 . Nhiệm 
vụ của không quân lúc này là sẵn sàng chiến đấu “mở mặt trận trên không thắng lợi" 
đánh thắng trận đầu. Chủ trương của ta là lấy đánh nhỏ để diệt địch và rèn luyện bộ đội. 
8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Những diễn biến trên không của cuộc đối đầu giữa không quân ta và không quân Mỹ có 
thể được tóm tắt như sau:
- Ngày 3-4-1965 , không quân Mỹ đánh khu vực cầu Hàm Rồng (Thanh Hoá). Chớp 
thời cơ, nắm chắc âm mưu thủ đoạn của địch, tận dụng yếu tố bất ngờ, biên đội 4 
máy bay MIG-17 đã xuất kích trận đầu, bắn rơi: 2 máy bay 8U của không quân hải 
quân Mỹ, “Mở mặt trận trên không thắng lợi”. Ngày 3-4 trở thành ngày truyền 
thống của bộ đội không quân.
- Ngày 4-4 mặc dù địch đông hơn ta gấp bội, nhưng với ý chí quyết thắng và tinh 
thần dũng cảm ngoan cường, 4 máy bay MIG-17 của ta đã bắn rơi 2 máy bay F-
105 (thần sấm) của không quân Mỹ. Đây là mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển 
của không quân ta.
- Trước đó 15-2-1965 các phi công của ta là Nguyễn Văn Ba và Lê Tiến Phước đã 
dùng 1 máy bay T-28 ta thu được của địch bắn rơi 1 máy bay C-1 23 của Mỹ - 
Nguỵ trên vùng trời biên giới Việt Lào khi chúng bay vào thả biệt kích trên lãnh 
thổ chúng ta. 
- Từ tháng 4-1965 đến tháng 6-1966, không quân ta đã xuất kích chiến đấu 24 trận, 
bắn rơi 26 máy bay các loại của Mỹ.
- Năm 1967-1968, Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc một cách toàn diện, 
quy mô lớn, liên tục và ác liệt hơn. Cuộc chiến đấu của không quân ta ngày càng 
khẩn trương, quyết liệt, không quân ta vừa phải tập trung lực lượng cùng với các 
lực lượng phòng không khác. Đánh bại các bước leo thang của địch bảo vệ Hà 
Nội, Hải Phòng và chấp hành các nhiệm vụ khác, vừa phải nổ lực nhanh chóng 
nâng cao chất lượng bộ đội để đáp ứng yêu cầu phái triển về tổ chức và trang bị 
mới, để giành thắng lợi lớn hơn.
- Những trận đầu đánh thắng có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị, quân sự “hạ uy thế 
của không lực Hoa Kỳ "mở đầu truyền thống chiến thắng vẻ vang của Không quân 
Nhân dân Việt Nam. 
Thời kỳ sau này không quân ta đã được trang bị máy bay tiêm kích MIG-21 hiện đại 
hơn, lực lượng được bổ sung dồi dào hơn. Do đó ta đã mở rộng phạm vi hoại động, 
đánh địch từ xa, trên nhiều hướng, nhưng vẫn giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ, càng 
ngày càng phát huy được tính năng và sở trường của từng loại máy bay. MIG-21 đánh 
xa (ngoài phạm vi của hoả lực phòng không ) với các phương pháp dẫn đường thích hợp 
dùng tốp nhỏ, chiếc lẻ tiến công vào đội hình lớn của địch. Từ đó phát triển thành chiến 
thuật " đánh nhanh thọc sâu”. MIG - 17 được chỉ đạo đánh gần, độ cao thấp, kết hợp cơ 
động mắt bằng với động cơ thẳng đứng. Cơ động mặl bằng nhanh phải thay đổi tâm lư-
ợn, tạo được yếu tố bất ngờ, đánh nhanh, rút nhanh, không ham quần lâu với địch. 
9
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Trong mọi trường hợp phải giữ tốt đội hình cảnh giới, đánh có công kích, có yểm hộ, 
rút khỏi chiến đấu đúng lúc, đúng thời cơ, chú trọng cơ động độ cao thấp, lợi dụng hoả 
lực cao xạ yểm trợ để về căn cứ an toàn.
- Khi đánh hiệp đồng hai loại máy bay đã hỗ trợ chi viện cho nhau cả về chiến thuật 
và hoả lực. Ví dụ trận đánh hiệp đồng giữa MIG-21 và MIG-17 ngày 23-08-1967 tại 
Tuyên Quang, Thanh Sơn (Vĩnh Phú).
- Ta đã dùng một biên đội 2 máy bay MIG-21 và biên đội 4 máy bay MIG-17, hiệp 
đồng chiến đấu bắn rơi 4 máy bay Mỹ (2 máy bay F-4 và 2 máy bay F-105). 
- Trận đánh máy bay cường kích của trung đoàn không quân tiêm kích 921. Ngày 18-
11-1 967 tại thanh Sơn - Hạ Hoà (Vĩnh Phú).
- Ta đã dùng biên đội 2 máy bay MIG-21 , trang bị tên lửa K-13 bắn rơi tại chỗ 2 máy 
bay F-105 của địch.
- Trận đánh máy bay gây nhiễu điện tử EB-66 của trung đoàn không quân tiêm kích 
921 ngày 19-11-1967 tại Lang Chánh - Hồi Xuân (Thanh Hoá) Ta đã dùng biên đội 
2 máy bay MIG-21 trang bị tên lửa K-13 (mỗi máy bay 2 quả) đã bắn rơi 1 máy bay 
gây nhiễu EB-66 của Mỹ, tạo điều kiện cho bộ đội tên lửa và pháo cao xạ đánh 1 
trận thắng lớn, bắn rơi 8 máy bay vừa cường kích và tiêm kích của địch, bẻ gãy một 
đợt tấn công quy mô lớn của chúng vào Hà Nội. 
- Từ cuối năm 1969, không quân ta đã cơ động một lực lượng MIG-17 và MIG-21 
vào Thọ Xuân (Thanh Hoá) để hoạt động chiến đấu trên chiến trường Nam khu 4 và 
trực tiếp bảo vệ các (chân hàng) cửa khẩu trên tuyến hành lang chiến lược, trong đó 
có nhiệm vụ quan trọng và mới mẻ là chuẩn bị đánh máy bay chiến lược B-52. Tổ 
chức theo dõi, nghiên cứu sự hoạt động của B - 52. Trong những năm 1970-1971, 
MIG-21 đã đánh thắng một số trận, bắn rơi các loại máy bay địch: trinh sát không 
người lái F-4, trực thăng CH-53, và bắn bị thương máy bay chiến lược B-52 làm cho 
địch hoảng sợ phải ngừng hoại động một thời gian, tạo điều kiện cho vận chuyển 
tiếp tế vào chiến trường Miền Nam. 
- Ngày 19-4-1972 hai máy bay MIG-17 đánh bị thương nặng hai tàu khu trục của Mỹ, 
trên vùng biển Quảng Bình, mở ra triển vọng mới làm tiền đề cho việc xây dựng và 
chiến đấu của bộ đội không quân tiêm kích bom sau này.
- Tháng 4-1972, đế quốc Mỹ đánh phá trở lại trên toàn bộ miền bắc Việt Nam. Ngay 
từ đầu của cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, địch đã tổ chức đối phó toàn diện 
với không quân ta bằng cách đánh thay đổi: tăng tỷ lệ tiêm kích yểm trợ từ 1/1 đến 
3/1, giảm số lượng cường kích, sử dụng đội hình linh hoạt; gây nhiễu trên diện rộng, 
hoạt động ở nhiều độ cao khác nhau, xâm nhập từ nhiều hướng, bay thấp, đánh lén, 
đánh chặn trên đường về hạ cánh của máy bay ta cũng như đánh phá liên tục và 
10
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
thường xuyên khống chế, chế áp các sân bay quân sự. Tuy vậy, không quân ta vẫn 
quyết tâm đánh địch. Điển hình là trận đánh máy bay tiêm kích của trung đoàn 
không quân 925 ngày 10-5-1972 tại đỉnh sân bay Yên Bái. Ta đã dùng 2 biên đội 
MIG-19 (mỗi biên đội 4 máy bay), kết quả ta đã bắn rơi 2 máy bay F-4 của Mỹ.
- Thời gian này không quân ta thường hiệp đồng chiến đấu giữa 2 đến 3 loại máy bay, 
hiệp đồng cùng loại máy bay, và hiệp đồng giữa không quân tiêm kích với cao xạ, 
tên lửa. Một số trận đánh hiệp đồng đạt hiệu suất chiến đấu cao như: Trận đánh ngày 
18-5-1972 hiệp đồng 3 biên đội : MIG-17, MIG-19 và MIG-21 bắn rơi 3 máy bay F-
4. Ngày 24-6-1972 hiệp đồng giữa 2 đội bay MIG-21 bắn rơi 3 máy bay F-4.
- Trận hiệp đồng đánh máy bay tìm cứu phi công nhảy dù của 2 trung đoàn không 
quân tiêm kích 921 và 927 ngày 27-6-1972 tại Hoà Bình, Sơn La, Mộc Châu. Ta đã 
dùng 2 biên đội MIG-21(mỗi biên đội 2 máy bay), kết quả cả 4 phi công ta bắn rơi 
tại chỗ 4 máy bay F-4 của địch, và về hạ cánh an toàn.
Như vậy những tháng giữa năm 1972 là thời kỳ không quân chiến đấu có hiệu suất 
cao nhất: Đơn vị nào cũng đánh thắng, lớp phi công nào cũng lập công, các đơn vị mới 
ra quân đều đánh thắng giòn dã như trung đoàn 925, trung đoàn 927. Hoạt động tác 
chiến điển hình nhất của không quân chống chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ là 
hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng phòng không đánh bại cuộc tập kích đường không 
chiến lược bằng B-52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp khác từ 
18÷30-12-1972.
Trong cuộc đọ sức quyết liệt này, phải kể đến trận đánh máy bay chiến lược B-52 
của trung đoàn không quân tiêm kích 921 đêm 27 tháng 12-1972 tại Tây nam Hà Nội. 
Ta đã dùng 1 máy bay MIG-21 với 2 tên lửa K-13 do phi công Phạm Tuân lái. Kết quả. 
trong vòng 24 phút thực hiện chuyến bay chiến đấu bằng 2 quả tên lửa, phi công Phạm 
Tuân đã bắn rơi 1 máy bay ném bom chiến lược B-52.
Trong cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975, không quân ta đã tích cực hoạt động 
trên nhiều lĩnh vực, vận chuyển chi viện chiến trường, các phi công phi đội "quyết 
thắng” nhanh chóng sử dụng máy bay A-37 thu được của Ngụy và đã ném bom sân bay 
Tân Sơn Nhất 28-4-1975, cùng với các lực lượng vũ trang nhân dân hoàn thành thắng 
lợi sứ mạng lịch sử giải phóng Miền Nam, thống nhất tổ quốc. 
Sau đó không quân liên tục chiến đấu giải phóng các hải đảo, bảo vệ biên giới Tây 
nam, chi viện cho chiến trường Campuchia, truy quét tàn quân địch. 
Sau 1975, hoạt động của không quân trở nên đa dạng hơn: Vừa làm nhiệm vụ huấn 
luyện, sẵn sàng chiến đấu, bay vận chuyển tiếp tế và thực hiện nhiều nhiệm vụ chính trị, 
quân sự và kinh tế khác.
11
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
III. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA KHÔNG QUÂN 
1. Xu thế chung
Bay nhanh, bay cao, bay xa, cơ động, hoả lực mạnh, tự động hoá và tàng hình là 
những yếu tố chủ yếu trong phươnghướng phát triển của máy bay chiến đấu trong tương 
lai.
 Đối với máy bay siêu âm hoạt động gần trái đất thì vận tốc đạt khoảng 3500 ÷ 3800 
km/h và độ cao khoảng 35 ÷ 40 km là giới hạn. Tuy nhiên, vẫn có nhiều nghiên cứu 
được xúc tiến để chế tạo các máy bay tiêm kích vũ trụ, có thể bay với độ cao khoảng 
50 ÷250km và vận tốc đạt khoảng 5000 ÷ 10000km/h. Những chiếc mày bay này có 
nhiệm vụ tiêu diệt các mục tiêu trên vũ trụ như: các tàu vũ trụ, các vệ tinh trinh sát, 
các trạm tự động… Các máy bay này đã được thí nghiệm và đạt được những kết quả 
đáng kể.
 Về tầm hoạt động hiện nay, các máy bay hiện đại có tầm hoạt động trung bình là 
3000 km, một số đạt 5000 - 6000 km. Trong tương lai, tầm bay xa trung bình phải là 
6000 - 7000 km, thậm chí có thể đạt 10000 km, nếu dùng động cơ nguyên tử có thể 
đạt tới 20.000 km. 
 Các máy bay chiến đấu đòi hỏi phải có tính cơ động cao, có tốc độ lớn và nhỏ; muốn 
vậy, máy bay cánh cụp, cánh xoè ngày càng được hoàn thiện, đồng thời máy bay cất 
hạ cánh thẳng đứng cũng ngày càng được cải tiến. 
 Trang bị vũ khí chủ yếu vấn là pháo, tên lửa, bom, nhưng ngày càng hiện đại, đồng 
thời vũ khí “ttinh khôn” điều khiển chính xác ngày càng được thay thế các vũ khí 
thông thường. 
 Xu thế phát triển của máy bay chiến đáu là dần dần tiến tới xoá bỏ ranh giới giữa 
máy bay tiêm kích và máy bay cường kích. Ngày nay các máy bay chiến đấu hiện 
đại đều được mang tên với chức năng "tiêm kích ném bom" gọi là "tiêm kích bom”, 
hay “tiêm kích - đa năng” như F-16, F-5 của Mỹ, MIG-29, MIG-31, SU-30, SU-35 
của Nga, TORNADO của Anh và Đức.
 Trong tương lai, các thiết bị tự động cũng được hoàn thiện hơn để giảm bớt người 
lái và đạt độ chính xác cao. Đồng thời trong các cuộc tiến công đường không tương 
lai, các phương tiện chiến đấu bay không người lái chiến đâu sẽ có vai trò to lớn có 
thể thay thế cho các máy bay chiến đấu có người lái trong các nhiệm vụ nguy hiểm. 
 Kỹ thuật tàng hình đã và đang được sử dụng, ngày càng được phát triển và hoàn 
thiện.
 Hiện nay Mỹ đã sản xuất được một số loại máy bay tàng hình như:
o Máy bay ném bom chiến lược tàng hình B-2 (máy bay mang 16 tấn bom).
12
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
o Máy bay tiêm kích - đa năng tàng hình F-117 A.
o Máy bay tiêm kích - đa năng tàng hình F-22.
Mỹ đã sử dụng 2 máy bay tàng hình F-117A trong chiến tranh ở Panama (12-1989) 
và trong chiến tranh vùng Vịnh (2-1991) với số lượng lớn hơn.
Trong chiến dịch bão táp sa mạc, Mỹ và liên quân dựa vào hai ưu thế công nghệ chủ 
yếu: Máy bay tàng hình và vũ khí chính xác cao: "Máy bay làng hình F-117 trực tiếp đột 
nhập vào không phận thủ đô Bátđa. Chúng bay đơn phương độc mã, không có máy bay 
hộ tống, nhưng được tiếp dầu trên không. .
Trong những chuyến không kích ban đêm đầu tiên, F-117 tiêu diệt 87 mục tiêu quan 
trọng. Điều đáng quan tâm là chúng cho phép tiết kiệm số máy bay tham chiến. Trước 
đây để đánh các mục tiêu kiên cố, Mỹ đã phải huy động một tốp : 8 máy bay cường 
kích, một biên đội máy bay gây nhiễu và 20 máy bay tiêm kích. Ngày nay, cũng nhiệm 
vụ đó chỉ cần một tốp F-117.
2. Chiến lược phát triển của không quân Mỹ.
Để thực hiện mục tiêu "khả năng tác chiến toàn cầu” trong thế kỷ 21, không quân 
Mỹ ngay từ 1997 đã xác định rõ 6 nhiệm vụ trọng tâm cần phải hoàn thành xong trước 
năm 2010 bao gồm:
- Bảo đảm ưu thế về không quân và hàng không vũ trụ quân sự.
- Bảo đảm giành ưu thế về thông tin.
- Từng bước thực hiện “tiến công toàn cầu” .
- Tăng cường khả năng tiến công chính xác.
- Thực hiện “ cơ động toàn cầu”.
- Bảo đảm khả năng tác chiến linh hoạt.
Hai năm sau, ngày 24-3-1999, không quân Mỹ mới bắt đầu thí nghiệm bằng các đợt 
không kích dữ dội trong 78 ngày chống Nam Tư. Qua chiến tranh Nam Tư, chúng ta có 
thể thấy rõ hơn xu hướng phát triển vũ khí trang bị của không quân.Mỹ. Trong 6 nhiệm 
vụ trọng tâm đã được xác định năm 1997, không quân Mỹ tập trung ưu tiên phát triển 
một số hạng mục chủ yếu sau:
• Máy bay tàng hình: Bao gồm các loại máy bay ném bom chiến lợc tàng hình B-2, 
máy bay chiến đấu tàng hình F-22 và máy bay tiêm kích liên quân JSF.
• Vũ khí có điều khiển chính xác: Cùng với việc cải tiến và nâng cấp vũ khí hiện 
có, KQ Mỹ còn tích cực nghiên cứu, phát triển các loại vũ khí thế hệ mới.
13
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
• Khả năng tiến công toàn cầu: Trọng điểm của kế hoạch này là huấn luyện để máy 
bay B-2 có thể cất cánh từ nước Mỹ tiến công bất cứ một mục tiêu nào trên thế 
giới.
• Vũ khí chống tên lửa đất đối đất chiến thuật và chiến lược: Trong đó trọng tâm 
chính là thực hiện kế hoạch TMD (phòng thủ tên lửa chiến trường) và NMD 
(phòng thủ tên lửa quốc gia).
Để triển khai "khả năng tác chiến toàn cầu” trong thế kỷ 21, không quân Mỹ đã tiến 
hành hợp nhất giữa kỹ thuật vũ trụ, thông tin và đường không với những biện pháp chủ 
yếu sau:
a. Xây dựng hệ thống trinh sát, giám sát, báo động cảnh giói trên cơ sở phát triển 
vệ tinh và máy bay trinh sát không người lái, lấy vệ tinh làm nòng cốt 
Biện pháp này nhằm nâng cao khả năng "hiểu biết toàn cầu” và khả năng "đối kháng 
thông tin". 
 Phát triển vệ tinh trinh sát
Phần lớn các vệ tinh đã được triển khai trong vũ trụ của không quân Mỹ đều được 
chế tạo trong thời kỳ chiến tranh lạnh, có vai trò báo động cảnh giới chiến lược, giá 
trị sử dụng trong chiến thuật rất thấp. Để nâng cao khả năng trinh sát, báo động cảnh 
giới của vệ tinh, không quân Mỹ sẽ thực hiện 3 phát triển lớn:
- Khai thác các vệ tinh hiện có nhằm nâng cao giá trị sử dụng chiến thuật, chiến 
dịch, đồng thời thực hiện chương trình "ứng dụng chiến thuật khả năng quốc 
gia” nhằm tạo khả năng truyền trực tiếp tới khoang lái cho các máy bay chiến 
đấu (trong thời gian thực) và kiểm chứng các dữ liệu thông tin do các phương 
tiện trinh sát đường không thu bắt được. 
- Phát triển hệ thống vệ tinh cảnh giới báo động đặt trên vũ trụ để tăng khả năng 
cảnh giới báo động tên lửa đường đạn, mở rộng khu vực phòng thủ từ 3 ÷ 5 
lần.
- Phát triển kỹ thuật vệ tinh nhỏ, linh hoạt có độ chính xác cao, để nâng cao khả 
năng cảnh giới, chỉ huy trên chiến trường.
 Phát triển máy bay trinh sát không người lái.
Mục tiêu của chương trình là tạo ra những máy bay trinh sát không người lái tính 
năng cao, hành trình xa, có thể phát hiện mục tiêu ở cự ly 320÷ 480 km và chụp ảnh 
có độ phân giải tới vài cm. Phát triển máy bay báo động cảnh giới không người lái 
để thay thế các loại E - 3, E - 8. Các loại máy bay mới có tốc độ xử lý thông tin 
nhanh hơn loại E - 3 tới 10000 lần loại E - 8 ÷ 1000 lần trong thời gian 10 ÷ 15 năm 
14
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét