Thứ Năm, 13 tháng 2, 2014
Nghiên cứu các giải pháp bảo tồn tài nguyên thú rừng có sự tham gia của người daan ở khu bảo tồn Hoàng liên- văn bàn
3
giảm nghiêm trọng. Nguyên nhân chính là do mất rừng tự nhiên dẫn đến nơi c trú
của các loài động vật bị thu hẹp, nguồn thức ăn bị hạn chế đã buộc chúng phải di c
hoặc co cụm lại. Báo cáo của WWF, Việt Nam năm 2000 đã cảnh báo tốc độ giảm
đa dạng sinh học ở nớc ta nhanh hơn rất nhiều so với một số quốc gia khác trong
khu vực và thú là nhóm hiện đang bị đe dọa nhiều nhất. Vì vậy việc nghiên cứu đầy
đủ tính đa dạng của khu hệ thú cũng nh ảnh hởng của con ngời đến tài nguyên
thú rừng là điều rất cần đợc quan tâm. Các số liệu nghiên cứu là cơ sở giúp cho các
nhà quản lý đa ra các giải pháp hữu hiệu trong công tác bảo tồn và lu giữ những
nguồn gen động vật quý hiếm.
Để ngăn chặn sự suy thoái đa dạng sinh học của quốc gia, Đảng và Nhà nớc
ta đã đa ra nhiều biện pháp nh ban hành hệ thống pháp luật, xây dựng hệ thống
rừng đặc dụng, ký kết tham gia nhiều công ớc quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu đã đạt đợc thì việc nghiên cứu để làm cơ sở khoa học cho việc quản lý và
phát triển bền vững đa dạng sinh học còn những hạn chế.
Văn Bàn là một trong những huyện vùng sâu, vùng xa của tỉnh Lào Cai và
nằm trong vùng địa lý sinh học Hoàng Liên Sơn. Đặc điểm nổi bật của vùng này là
đang còn những hệ sinh thái rừng tự nhiên điển hình cho vùng núi cao và núi trung
bình của Tây Bắc. Rừng giầu, có nhiều loài động, thc vật quý hiếm hiện đang đợc
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nớc quan tâm. Số liệu thống kê cha đầy đủ do
Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật, Tổ chức động thực vật thế giới tại Việt Nam
(FFI) cho thấy, ít nhất, huyện Văn Bàn đã nghi nhận đợc 345 loài thực vật, 342 loài
động vật có sơng sống ở cạn. Đặc biệt, rừng Văn Bàn còn là nơi nuôi dỡng nhiều
loài động vật quý hiếm nh Gà tiền mặt đỏ (Polyplectron germaini), Khớu đầu
xám (Garrulax vassali
), Gấu ngựa (Ursus thibetanus), Gấu chó (Ursus malayanus).
Trong 49 loài thú phân bố ở đây, có 23 loài thú quý hiếm có tên trong Sách Đỏ Việt
Nam có nguy cơ tuyệt chủng, nguy cấp nhất là loài Vợn đen tuyền (Nomascus
concolor concolor) chỉ còn lại 7- 9 cá thể [32] và hiện nay đang đợc tỉnh Lào Cai
đề nghị Chính phủ quy hoạch để xây dựng Khu Bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên -
Văn Bàn. Do cha đợc thành lập khu bảo tồn nên công tác quản lý tài nguyên rừng
ở Văn Bàn còn nhiều khó khăn, đặc biệt là hoạt động săn bắn thú rừng. Một trong
4
những thách thức đối với công tác quản lý tài nguyên rừng là sự phụ thuộc của ngời
dân địa phơng vào tài nguyên rừng còn rất lớn. Để có cơ sở lý luận cho việc đề xuất
các giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học ở huyện Văn Bàn có hiệu quả, tôi tiến hành
thực hiện đề tài: Nghiên cứu các giải pháp bảo tồn tài nguyên thú rừng có sự
tham gia của ngời dân ở Khu Bảo tồn Hoàng Liên - Văn Bàn (dự kiến), tỉnh
Lào Cai.
5
Chơng 1
Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
Sự tồn tại của xã hội loài ngời liên quan trực tiếp đến các nguồn tài nguyên
nh nớc, đất đai, khoáng sản và động thực vật. Đặc biệt do nguồn lợi động vật rừng
nói chung và thú rừng nói riêng không những có tầm quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân mà cả trong đời sống nhân dân. Có thể khẳng định rằng không một loài
thú nào tồn tại trong tự nhiên mà lại không có ý nghĩa trong thực tiễn. Với ý nghĩa
và giá trị về nhiều mặt của thú nên từ lâu đời, nhóm thú đã đợc nhiều nhà khoa học
trong và ngoài nớc quan tâm nghiên cứu.
1.1. Thế giới
Năm 1828, nhà khoa học ngời Anh - George Finlayson đã công bố tài
liệu "The Misson to Siam and Hue, the Capital of Cochin China in the years
1821-1822". Trong tài liệu này ông đã mô tả và bớc đầu đa ra những nhận xét về
một số loài thú gặp ở Việt Nam, Lào và Campuchia.
Trong thời kỳ đô hộ tại Việt Nam, ngời Pháp đã có những hoạt động bớc
đầu nhằm tìm hiểu về thiên nhiên Việt Nam trong đó có nhóm thú. Những tài liệu
ban đầu về thú của Nam Bộ và Tây Nguyên đã đợc các nhà động vật học nghiệp d
công bố (Jouan,1868; Dr Harmand, 1881; Heude, 1888).
Cùng thời gian này, một số nghiên cứu có liên quan đến thú đã đợc
Brousmiche xuất bản tài liệu năm 1887 "Nhìn chung về lịch sử tự nhiên của Bắc
Bộ". Trong tài liệu này ông đã giới thiệu về một số loài thú Bắc Bộ, chủ yếu là các
loài có giá trị kinh tế, dợc liệu nh: Hổ, Báo, Khỉ, Nai và khu phân bố của chúng.
Năm 1894 Heude công bố về loài Sơn dơng (Caparicornis maritimus) ở Bắc Bộ.
Năm 1896, De Pousarguesd đã thông báo về loài Vợn mới (Hylobates henrici) ở
Lai Châu và loài Voọc đen (Phithecus francoisi - 1898) ở khu vực giáp ranh Bắc Bộ
và Trung Bộ.
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tình hình nghiên cứu thú ở
nớc ta có nhiều tiến triển hơn. Bên cạnh sự tìm hiểu, nghiên cứu của cá nhân còn có
đoàn nghiên cứu do Pavie dẫn đầu (Nghiên cứu về lịch sử tự nhiên của Đông D
ơng),
6
tiến hành khảo sát và nghiên cứu tơng đối hoàn chỉnh về các loài thú ở miền Nam
Việt Nam từ năm 1879 đến năm 1898. Các nghiên cứu này đợc De Pousargues
tổng hợp và xuất bản cuốn "Recherches sur L'Histoire naturelle de L'Indochine
Orientale, Mission Pavie,1879-1898" (1904). Trong công trình đó, tác giả đã thống
kê đợc 200 loài và loài phụ thú ở Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan. Riêng ở
Việt Nam đã phát hiện đợc 117 loài và loài phụ thú.
Cũng trong khoảng thời gian đó, đoàn khoa học thờng trú Đông Dơng do
Boutan dẫn đầu đoàn khảo sát thú miền Bắc Việt Nam. Kết quả đợc đăng trong tạp
chí Bulltine Museum Historie Naturelle (Ménégaux, 1905-1906). Năm 1906, Boutan
đã cho xuất bản cuốn sách "Mời năm nghiên cứu động vật" trong đó đã nêu những
dẫn liệu về hình thái, sinh học và phân bố địa lý của 10 loài thú.
Từ năm 1923-1924, Herbert Steven (Mỹ) đã tiến hành su tầm thú ở Bắc Bộ,
tập trung chủ yếu ở Yên Bái; E.R.Wulsin su tầm thú ở Lai Châu vào năm 1924;
hoạt động nghiên cứu của đoàn Kelley - Roosevell (Mission Kelley - Roosevell,
Field Museum of Natural History, Chicago, (1928-1929)). Đoàn đã tiến hành thu
thập mẫu tại các vùng Quảng Trị, Huế, Lào Cai và Lai Châu.
Năm 1932, H.Osgood đã tập hợp tất cả những tài liệu của các tác giả trên và
đa ra thông báo chung về thú. Riêng ở Việt Nam đã nghi nhận đợc 172 loài và phân
loài. Đây là tài liệu có giá trị về nghiên cứu phân loại và khu hệ thú ở Việt Nam.
Trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp từ năm 1945-1954 các hoạt động
nghiên cứu về thú ở Việt Nam bị gián đoạn. Đến năm 1969, P.F.D.Van Peenen
nghiên cứu khu hệ thú ở các tỉnh phía Nam (từ Đà Nẵng đến Nam Bộ) và đã rất chú
trọng đến phân loại học Kết quả nghiên cứu đợc đăng trong cuốn "Prelimitary
Indentification Manual for Mammals of South Viet nam, trong đó đã thống kê và
mô tả sơ bộ đợc 217 loài và phân loài thú có ở miềm Nam Việt Nam, ghi nhận khái
quát về phân bố của chúng [37].
Từ năm 1990 đến nay, đã có nhiều nhà khoa học, các chuyên gia về động vật
thuộc các tổ chức WWF, FFI, cùng hợp tác với các nhà khoa học Việt Nam,
thông qua các cơ quan chức năng tham gia nhiều các chơng trình, dự án ằmn nhằm
nghiên cứu, bảo tồn động vật hoang dã (John B. Sale, K. Berkmuller, John
Mackinnon, Roger Cox, ).
7
1.2 . Việt Nam
Đã từ lâu đời thú đợc nhân dân ta sử dụng làm thực phẩm, dợc liệu, xuất
khẩu, Chính vì vậy những công trình nghiên cứu về thú ở nớc ta đợc bắt đầu từ
rất sớm.
ở thế kỷ XVIII từ năm 1724-1784, nhà khoa học triều Lê, Lê Quý Đôn viết
cuốn sách Vân đài loại ngữ và Phủ biên tạp lục, trong đó đã thống kê nguồn lợi
động vật của một số địa phơng. Tiếp đó là công trình Đại nam nhất chí của các
nhà bác học triều Nguyễn (1874) thống kê các loài thú ở nhiều tỉnh trong cả nớc.
Giai đoạn từ năm 1954-1975, công tác nghiên cứu thú đợc triển khai mạnh và
chủ yếu do các nhà khoa học Việt Nam đảm nhiệm, tiêu biểu có:
Đặng Huy Huỳnh (1968) đã công bố một phần kết quả nghiên cứu về thú ăn thịt và
thú móng guốc miền Bắc Việt Nam.
Lê Hiền Hào (1973) [5] đã xuất bản cuốn Thú kinh tế miền Bắc Việt Nam
trong đó giới thiệu một số đăc điểm sinh học, sinh thái, phân bố và ý nghĩa kinh tế
của 41 loài thú miền Bắc Việt Nam, đề ra những biện pháp nhằm khôi phục, phát
triển và sử dụng hợp lý nguồn lợi thú.
Cao Văn Sung, Đặng Huy Huỳnh, Bùi Kính (1980) [20] đã viết cuốn Những
loài gặm nhấm ở Việt Nam.
Dao Van Tien (1983). On the North Indochinese Gibbons (Hylobates
concolor) (Primates: Hylobatidea) in the North Vietnam; khảo sát thú miền Bắc Việt
Nam (1895) ; On the trends of the evolutionary radiation on the Tonkin leaf monkey
(Presbitys francoisi, Primate: Cercopithecidea) (1989).
Năm 1992 cuốn Sách Đỏ Việt Nam [1] - Phần động vật đã đợc xuất bản.
Đây là một tài liệu quan trọng giới thiệu 359 loài động vật (80 loài thú) trên các
phơng diện hình thái, sinh học, sinh thái, phân bố, giá trị cũng nh tình trạng của
chúng ở Việt Nam.
Năm 1994, cuốn Danh lục các loài thú (Mammalia) Việt Nam do GS - TS
Đặng Huy Huỳnh chủ biên [9] đã liệt kê 223 loài thú thuộc 37 họ trong 12 bộ thú
phân bố ở Việt Nam.
8
Những nghiên cứu bổ xung cho tài nguyên thú Việt Nam nh Thú móng
guốc của Đặng Huy Huỳnh (1986) [8], Thú ăn thịt của Phạm Trọng ảnh (1982),
Thú linh trởng của Phạm Nhật (1993) [12,13], Thú họ Cầy của Nguyễn Xuân
Đặng (1995).
Những năm gần đây đã có nhiều tài liệu hớng dẫn thực địa cho các nhóm
động vật đợc biên soạn, về thú có Sổ tay ngoại nghiệp nhận diện các loài thú vùng
Phong Nha Kẻ Bàng của Phạm Nhật và Nguyễn Xuân Đặng (2000); Sổ tay ngoại
nghiệp nhận diện các loài thú của Vờn quốc gia Cát Tiên của Phạm Nhật,
Nguyễn Xuân Đặng (2001) [14], trong đó đã nêu chi tiết các đăc điểm nhận biết và
tập tính sinh thái của 53 loài thú tiêu biểu của Vờn quốc gia Cát Tiên nói riêng và
vùng Nam Trung Bộ, Nam Bộ nói chung; Thú linh trởng của Việt Nam của
Phạm Nhật (2002) [15].
Đặc biệt, việc phát hiện ra 4 loài thú mới ở Việt Nam: Sao La (Psedoryx
nghetinhensis), Mang lớn (Megamuntiacus vuquagensis), Bò xám Tây Nguyên
(Pseudonovinus spiralis) trong những năm gần đây đã nói nên khu hệ thú Việt Nam
còn nhiều điều bí ẩn và chúng ta còn nhiều việc phải nghiên cứu.
1.3. Tình hình nghiên cứu về khu hệ động vật ở dãy núi Hoàng Liên và KBTTN
Hoàng Liên - Văn Bàn (dự Kiến)
Với địa hình hiểm trở, phức tạp và có độ cao lớn nhất cả nớc nên nơi đây đã
hội tụ của nhiều loài động vật đặc hữu, quý hiếm và đã đợc các nhà khoa học trong
và ngoài nớc quan tâm, nghiên cứu:
- Những nghiên cứu đầu tiên về hệ động vật thú đợc tiến hành ở dãy Hoàng
Liên vào năm 1929 bởi Kelley - Roosevelts và Delacour (osgood, 1932). Trong các
đợt nghiên cứu đó đã thu đợc 51 loài thú, 4 loài Dơi. Một số nghiên cứu sau đó
đợc tiến hành bởi Đào Văn Tiến vào năm 1965 đã nghi nhận đợc 18 loài thú, bao
gồm 8 loài Dơi (Đào Văn Tiến, 1985).
- Trong cuốn Mammals of Kelly - Roosevelts and Delacour asiatis
expedition.Publ Field Mus. Nat. Hist. New york osgood.W.H,1932 đã nghi nhận
một số loài thú tại Sa Pa (Ô Quy Hồ).
9
- Báo các chuyên đề động vật Sa Pa của Phạm Nhật, Nguyễn Minh Tâm trong
Khảo sát đa dạng sinh học và đánh giá công tác bảo tồn trong chơng chình
nghiên cứu rừng Frontier - Việt Nam.
- Báo cáo Thú Sa Pa và những giải pháp bảo tồn của Phạm Nhật đăng
trong thông tin khoa học kỹ thuật lâm nghiệp, Đại học Lâm nghiệp số 2/1996.
Đối với KBTTN Hoàng Liên - Văn Bàn (dự kiến), tuy đợc coi là vùng giàu
tài nguyên nhng đến nay mới chỉ có một vài nghiên cứu mang tính thăm dò bớc
đầu về khu hệ thực vật, động vật, trong đó có lớp thú do Viện sinh thái và tài
nguyên sinh vật, Tổ chức động thực vật thế giới tại Việt Nam (FFI) thực hiện từ
năm (2001- 2003). Cho đến nay chơng trình điều tra và nghiên cứu tài nguyên
rừng KBTTN Hoàng Liên - Văn Bàn (dự kiến) vẫn đang tiếp tục đợc triển khai ở
các mức độ khác nhau.
Nh vậy, tính đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về khu hệ động vật
ở dãy núi Hoàng Liên nói chung và ở KBTTN Hoàng Liên - Văn Bàn (dự kiến) nói
riêng. Các nghiên cứu đã có những phát hiện quan trọng về thành phần loài và các
loài động vật quý hiếm. Tuy nhiên nghiên cứu về tính đa dạng khu hệ thú trên các
khía cạnh tổ thành, đa dạng về phân loại, đa dạng về yếu tố địa lý động vật và đa
dạng về giá trị còn hạn chế. Đặc biệt cha có nghiên cứu nào đánh giá về hiện trạng
và đề xuất những giải pháp quản lý hiệu quả tài nguyên thú dựa trên cơ sở cộng
đồng có sự tham gia của ngời dân ở KBTTN Hoàng Liên - Văn Bàn (dự kiến).
10
Chơng 2
Đặc điểm tự nhiên - Kinh tế - X hội
của khu vực nghiên cứu
Theo chiến lợc phát triển rừng đặc dụng tỉnh Lào Cai đến năm 2010 [6], hiện
nay UBND tỉnh đã và đang đề nghị chính phủ quy hoạch xây dựng mới KBTTN
Hoàng Liên - Văn Bàn với tổng diện tích 30.000 ha trong đó 26.000 ha bảo vệ nghiêm
ngặt và 4.000 ha là vùng đệm nằm trên địa bàn của 3 xã Nặm Xây, Nậm Xé và Dơng
Quỳ. Do cha có luận chứng kinh tế - kỹ thuật cho KBTTN Hoàng Liên - Văn Bàn,
nên đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của khu vựu nghiên cứu đợc thực hiện trên
phạm vi toàn huyện [28], tác động của con ngời và thực trạng quản lý bảo tồn tài
nguyên thú đợc thực hiện trên địa bàn 3 xã đợc quy hoạch xây dựng khu bảo tồn.
2.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
Văn Bàn là một huyện miền núi, nằm ở phía Đông Nam tỉnh Lào Cai, cách
thị xã Lào Cai 85 km.
Tọa độ địa lý: 21
0
52
đến 22
0
15
vĩ độ Bắc
103
0
56
đến 104
0
25
kinh độ Đông.
Phía Bắc tiếp giáp với các huyện Sa Pa, Bảo Thắng tỉnh Lào Cai;
Phía Tây tiếp giáp với huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu;
Phía Nam tiếp giáp với huyện Mù Căng Chải, huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái;
Phía Đông tiếp giáp với huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai.
2.1.2. Địa hình - địa chất - thổ nhỡng
Tổng thể, huyện Văn Bàn nh một lòng chảo lớn, gồm nhiều lòng chảo nhỏ,
địa hình phức tạp có độ cao giảm dần từ Đông sang Tây, thung lũng hẹp, đồi núi
không theo hớng nhất định mà ở dạng những vành đai ngăn cách các xã trong
huyện.
- Độ cao tuyệt đối max = 2.913 m
- Độ cao tuyệt đối min = 85 m
- Độ dốc bình quân là 25
0
.
Trên địa bàn huyện Văn Bàn có các loại đất sau:
11
a. Đất mùn Alit trên núi cao: loại đất này phân bố ở độ cao >1.700 m, với
diện tích là 18.648 ha, chiếm 12,9% so với diện tích tự nhiên.
b. Đất Feralit mùn trên núi cao: phát triển trên đá Gralit, phân bố ở độ cao từ
700 m-1.700 m, với diện tích 57.264 ha, chiếm 32,8% diện tích đất tự nhiên.
c. Đất Feralit điển hình: phát triển trên các loại đá mẹ Lipit, Xa thạch và
Gralit. Loại đất này phân bố ở vùng đồi và núi thấp < 700 m, với diện tích 63.742
ha, chiếm 44,3% diện tích đất tự nhiên.
d. Đất phù sa không đợc bồi tụ thờng xuyên: loại đất này phân bố dọc suối,
các thung lũng hẹp, với diện tích 2.019 ha, chiếm 1.4% diện tích đất tự nhiên.
đ. Đất lúa nớc: phân bố dọc theo các con sông, suối.
Nhìn chung đất ở huyện Văn Bàn thuộc loại đất tốt, thành phần có từ cát pha
đến thịt nhẹ, thích hợp với nhiều loại cây trồng.
2.1.3. Khí hậu - thuỷ văn
2.1.3.1. Khí hậu
Văn Bàn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thuộc tiểu vùng 1, vùng
khí hậu 3 của tỉnh Hoàng Liên Sơn cũ, có 2 mùa rõ rệt: mùa ma và mùa khô. Mùa
ma từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% lợng ma cả năm, ma nhiều tập trung vào
tháng 7, 8 chiếm 70% lợng ma cả năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
- Lợng ma bình quân hàng năm thấp: 1.500 mm
- Độ ẩm bình quân là: 86% (cao nhất là 91%, thấp nhất là 44%)
- Tổng tích ôn từ: 8.000
0
c- 8.100
0
c
- Nhiệt độ bình quân năm: 22,9
0
c
- Nhiệt độ cao nhất: 39
0
c
- Nhiệt độ thấp nhất: 3
0
c (ở một số đỉnh núi cao > 1.500 m, nhiệt độ tới 0
0
c).
Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 9, mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau.
Các tháng nóng nhất là tháng 7, 8; lạnh nhất là tháng 12 và tháng 1.
- Hớng gió thịnh hành vào mùa Đông là gió Đông Bắc; về mùa hè là gió
Đông Nam, gió Tây Nam (gió Lào) xuất hiện từ tháng 3 đến tháng 9, mỗi đợt kéo
dài 3-7 ngày.
12
- Số ngày có sơng mù trong mùa Đông từ 65-85 ngày (vào tháng 11 đến
tháng 3 năm sau).
Nhìn chung điều kiện khí hậu của huyện Văn Bàn khá thuận lợi cho nhiều
loài cây trồng nhiệt đới. Tuy nhiên do lợng ma phân bố không đều trong năm, gió
Lào thờng xuyên xuất hiện vào các tháng 3 đến tháng 9 nên gây không ít khó khăn
cho cây trồng vật nuôi, đời sống dân sinh trong mùa khô hanh.
2.1.3.2. Thuỷ văn
Hệ thống sông suối ở huyện Văn Bàn gồm có sông Hồng và 2 suối lớn là suối
Nhù và suối Chăn, chảy theo 3 hớng chính:
- Sông Hồng chảy theo hớng Đông - Nam qua địa bàn huyện với chiều dài
15 km.
- Suối Nhù đợc bắt nguồn từ xã Nậm Tha, Nậm Chày chảy theo hớng Tây -
Nam và đổ ra sông Hồng ở xã Võ Lao.
- Suối Chăn đợc xuất phát từ xã Nậm Xé, Nậm Xây chảy theo hớng Đông -
Bắc và đổ vào sông Hồng ở xã Tân An.
Các khe suối nhỏ đợc đổ về 2 con suối này và đổ ra sông Hồng tạo thành
mạng lới sông suối tơng đối dày đặc. Hệ thống sông suối ở đây đã và đang góp
phần điều hoà khí hậu, duy trì độ ẩm trong rừng và là nguồn nớc quan trọng cho
động vật vào mùa khô.
2.1.4. Tài nguyên rừng và đất rừng
Số liệu thông kê diện tích đất đai theo 3 loại rừng tính đến ngày 30/12/2003
của Hạt kiểm lâm huyện Văn Bàn [2]: tổng diện tích đất tự nhiên huyện Văn Bàn là
143.927 ha, trong đó:
- Diện tích đất lâm nghiệp là 115.668 ha
+ Diện tích đất có rừng: 84.000,3 ha, chiếm 58,3% tổng diện tích đất tự nhiên
+ Diện tích rừng tự nhiên: 79.771,0 ha
+ Diện tích rừng trồng: 4.229,3 ha.
+ Diện tích đất trống: 31.667,7 ha.
- Diện tích đất khác: 28.259 ha.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét