Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động ủy thác đầu tư tại Tổng công ty cổ phần Tài chính Dầu khí Việt Nam

Luận văn tốt nghiệp SV: Nguyễn Thái Hà - Lớp TCDN 46B
- Một số lĩnh vực mà công ty tài chính không bị Chính phủ kiểm soát
chặt chẽ như các NHTM ,ví dụ như: Chính phủ chỉ kiểm soát, hạn
chế số tiền cực đại mà các công ty tài chính có thể cho các cá nhân
vay,kỳ hạn của các hợp đồng nợ nhưng không hạn chế về số lượng
chi nhánh, về tài sản mà họ nắm giữ và thu nhập vốn của họ. Điều
đó cho phép các công ty tài chính linh hoạt hơn để phục vụ khách
hàng tốt hơn nữa.
1.1.1.2.Các loại hình và đặc trưng của từng loại hình công ty tài chính
• Phân loại theo đối tượng khách hàng:
- Công ty tài chính bán hàng: thực hiện các món cho vay cho những
người tiêu dùng để mua các món hàng từ một nhà bán lẻ hoặc một
nhà sản xuất riêng.Các công ty tài chính bán hàng trực tiếp cạnh
tranh với các ngân hàng về cho vay tiêu dùng và người được tiêu
dùng sử dụng bởi vì các món vay thường được thực hiện nhanh hơn
và tiện lợi hơn tại nơi mua hàng
- Công ty tài chính người tiêu dùng: thực hiện các món cho vay cho
người tiêu dùng để mua những món hàng riêng như đồ đạc và dụng
cụ gia đình để cải thiện nhà cửa hoặc để giúp thanh toán những món
nợ nhỏ. Các công ty tài chính người tiêu dùng là các công ty riêng
biệt hoặc do các ngân hàng sở hữu. Các công ty này cho người tiêu
dùng vay mà không có tín dụng từ những nguồn khác và thu lãi suất
cao hơn.
- Công ty tài chính kinh doanh: cung cấp các dạng tín dụng đặc biệt
cho các doanh nghiệp bằng cách mua những khoản tiền sẽ thu (các
hóa đơn của hãng) có chiết khấu. Việc cung cấp tín dụng này được
gọi là bao thanh toán. Ngoài việc bao thanh toán các công ty tài
chính kinh doanh cũng chuyên môn hóa trong việc cho thuê thiết
55
Luận văn tốt nghiệp SV: Nguyễn Thái Hà - Lớp TCDN 46B
bị,là những thứ mà họ mua và cho các nhà kinh doanh thuê một số
năm( leasing).
• Phân loại theo quan hệ sở hữu
2
: theo điều 3 Nghị định 79/2002/NĐ-
CP.
- Công ty tài chính Nhà nước: là Công ty Tài chính do Nhà nước
đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh.
- Công ty tài chính cổ phần: là Công ty Tài chính do các tổ chức và
cá nhân cùng góp vốn theo quy định của pháp luật, được thành lập
dưới hình thức Công ty cổ phần.
- Công ty tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng: là Công ty Tài chính
do một tổ chức tín dụng thành lập bằng vốn tự có của mình và làm
chủ sở hữu theo quy định của pháp luật, hạch toán độc lập và có tư
cách pháp nhân.
- Công ty tài chính liên doanh: là Công ty Tài chính được thành lập
bằng vốn góp giữa bên Việt Nam gồm một hoặc nhiều tổ chức tín
dụng, doanh nghiệp Việt Nam và bên nước ngoài gồm một hoặc
nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài, trên cơ sở hợp đồng liên
doanh.
- Công ty tài chính 100% vốn nước ngoài: là Công ty Tài chính
được thành lập bằng vốn của một hoặc của nhiều tổ chức tín dụng
nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam.
• Phân loại theo tính độc lập trong hoạt động
- Công ty tài chính hoạt động độc lập: là những công ty tài chính hoạt
động thực thể kinh tế độc lập, tự quyết định trong mọi hoạt đông kinh
doanh.
2 Điều 3, NĐ 79/2002/ NĐ - CP
66
Luận văn tốt nghiệp SV: Nguyễn Thái Hà - Lớp TCDN 46B
- Công ty tài chính trực thuộc tập đoàn kinh tế: là những công ty tài
chính là thành viên của tập đoàn,hoạt động chủ yếu của các công ty này
là tìm kiếm được các nguồn vốn đầu tư để cung ứng cho các thành viên
trong tập đoàn, điều hòa vốn giữa các thành viên trong tập đoàn, trong
quan hệ với các ngân hàng và các đối tác; quản lý áp dụng các biện
pháp phòng ngừa rủi ro tài chính cho các thành viên,cung cấp các dịch
vụ tư vấn tài chính khác cho các thành viên tập đoàn.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của công ty tài chính
1.1.2.1.Huy động vốn
3

- Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo
quy định của pháp luật.
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy
tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
theo quy định của pháp luật hiện hành;
- Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong, ngoài nước và các tổ
chức tài chính quốc tế.
- Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá
nhân trong và ngoài nước.
So với các ngân hàng, nguồn vốn huy động được của các công ty tài chính
phải chịu mức chi phí cao hơn do họ chỉ được phép huy động các nguồn vốn
trung và dài hạn. Bên cạnh đó, công ty tài chính không được phép vay từ cửa
sổ chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước dễ dàng như các NHTM. Ở Mỹ, các
công ty tài chính không được tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên ngân
hàng nên họ không cần phải duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà chỉ cần trích lập
quỹ dự phòng rủi ro và duy trì tỷ lệ đảm bảo an toàn.
1.1.2.2.Hoạt động tín dụng.
3 Điều 17/ NĐ 79/2002/ NĐ-CP
77
Luận văn tốt nghiệp SV: Nguyễn Thái Hà - Lớp TCDN 46B
Các công ty tài chính được phép hoạt động tín dụng dưới các hình thực
cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, cho thuê (leasing) và bao thanh
toán( factoring). Hoạt động tín dụng của công ty tài chính cũng có những nét
khác biệt các NHTM, thể hiện qua 3 đặc điểm sau: Công ty tài chính chủ yếu
cho vay trung và dài hạn, họ chủ yếu thực hiện vay các món lớn rồi chia thành
các món nhỏ để cho vay- điều này hoàn toàn ngược lại so với các NHTM.
Đồng thời vì chi phí vốn vay lớn hơn các NHTM nên công ty tài chính thường
gặp khó khăn hơn trong việc tìm kiếm các hợp đồng cho vay hoặc phải chấp
nhận cho vay các hợp đồng hay dự án có rủi ro cao.
Công ty tài chính có các hình thức cho vay như: cho vay tiêu dùng, cho
vay trả góp, cho vay theo ủy thác của chính phủ, cá nhân và tổ chức đã phê
duyệt. Bên cạnh đó, công ty tài chính còn chiết khấu các giấy tờ có giá theo
quy định của pháp luật,thực hiện bảo lãnh bằng uy tín của mình….
1.1.2.3.Các dịch vụ tài chính khác
Bên cạnh hai hoạt động chủ chốt là huy động vốn và tín dụng - hoạt động
đặc trưng của một trung gian tài chính,các công ty tài chính còn thực hiện
thêm những hoạt động khác như đầu tư, nhận ủy thác,tư vấn tài chính, kinh
doanh vàng và ngoại tệ….Tất cả những hoạt động này đều tuân theo quy định
và giám sát của các cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Trong tất cả các hoạt đông trên, hoạt động nhận ủy thác để đầu tư hoặc cho
vay đóng vai trò quan trọng,làm nên sự khác biệt của các công ty tài chính so
với các NHTM.
1.2. Dịch vụ ủy thác đầu tư của công ty tài chính
1.2.1.Quan niệm chung về ủy thác
1.2.1.1.Quan niệm về ủy thác
Theo từ điển “Kinh tế hiện đại”, ủy thác là việc tài sản của người này được
giao cho người khác để quản lý và kinh doanh. Người nhận quản lý tài sản sẽ
không được hưởng lợi tức sinh ra từ tài sản đó mà chỉ được nhận một khoản
88
Luận văn tốt nghiệp SV: Nguyễn Thái Hà - Lớp TCDN 46B
phí hoặc một phần lợi nhuận nào đó theo thỏa thuận với người chủ tài sản
được ủy thác.
Theo Whasington State Bar Association: ủy thác là một bản hợp đồng mà
theo đó, tài sản được nắm giữ và quản lý bởi một người vì quyền lợi của một
người khác.
Thuật ngữ ủy thác ra đời từ khi có sự tách biệt giữa một bên là chủ sở hữu
tài sản và một bên quản lý tài sản. Chủ sở hữu tài sản có thể giao phó tài sản
của mình cho người khác(người thụ thác) nắm giữ và sử dụng nó trong phạm
vi mối quan hệ của họ và theo hợp đồng thỏa thuận. Hoạt động ủy thác làm
này sinh mối quan hệ: một bên hoạt động cho lợi ích của bên kia theo như
hợp đồng thỏa thuận và người hưởng thụ sẽ cũng có thể là bên thứ ba. Trên
thế giới, dịch vụ ủy thác ra đời từ rất sớm, đầu tiên xuất hiện ở Mỹ và Anh.
Trong giai đoạn đầu này các chức năng ủy thác được thực hiện bởi các công
ty bảo hiểm hoặc các cá nhân. Một đặc điểm quan trọng trong giai đoạn này
đó là chưa có sự tham gia của pháp luật trong điều hành hoạt động ủy thác vì
vậy các bên chỉ thỏa thuận trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau, đôi bên cùng có lợi.
Ở Mỹ, mãi đến năm 1913, các ngân hàng mới được quyền thực hiện các dịch
vụ ủy thác và cho đến bấy giờ,hoạt động ủy thác thường gắn liền với hoạt
động của các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty chứng
khoán…Ở Việt Nam,các công ty tài chính là cha đẻ của các loại hình dịch vụ
ủy thác và ngày nay cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt
Nam càng có nhiều các quỹ ủy thác đầu tư xuất hiện.
Qua hai khái niệm trên ta hiểu về bản chất ủy thác biểu hiện mối quan hệ
giữa hai hay nhiều bên tham gia, bao gồm:
- Người ủy thác: trustor
- Người nhận ủy thác: trustee
99
Luận văn tốt nghiệp SV: Nguyễn Thái Hà - Lớp TCDN 46B
- Người thụ hưởng: beneficiary (người thụ hưởng thường là chính người
ủy thác)
Trong mối quan hệ này, người ủy thác phải giao quyền nắm giữ tài sản cho
người nhận ủy thác và “tài sản” được hiểu theo nghĩa rộng là tiền mặt, bất
động sản,giấy tờ có giá hoặc một công việc ý muốn nào đó cần được thực
hiện.
Ủy thác có 4 đặc điểm cơ bản sau:
- Ủy thác dựa trên cơ sở tin tưởng giữa người này với người khác, do đó
thuật ngữ Trust được sử dụng để chỉ nghiệp vụ này.
- Mang tính trung gian: người ủy thác không trực tiếp thực hiện quản lý và
kinh doanh tài sản.
- Là một loại hình dịch vụ vì nó không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu
tài sản mà vẫn mang lại lợi ích và cung cấp 1 giải pháp nào đó cho khách
hàng.
- Ủy thác không chỉ đem lại lợi nhuận cho khách hàng mà còn sinh lời cho
chính tổ chức hay cá nhân nhận ủy thác.
1.2.1.2.Các loại hình ủy thác.
1.2.1.2.1.Căn cứ vào chức năng của ủy thác:
• Ủy thác quản lý vốn và tài sản: đây là sản phẩm dịch vụ ủy thác mà
cá nhân hay tổ chức nhận quản lý và kinh doanh giúp sinh lời tài sản
mà bên ủy thác giao phó.
• Ủy thác thực hiện công việc: loại hình ủy thác này được hiểu là bên
nhận ủy thác có trách nhiệm phải hoàn thành một hay một nhóm các
công việc do bên ủy thác giao phó, ví dụ như: ủy thác ký hợp đồng,
ủy thác đầu tư, ủy thác cho vay…
1.2.1.2.2.Căn cứ vào đối tượng khách hàng:
1010
Luận văn tốt nghiệp SV: Nguyễn Thái Hà - Lớp TCDN 46B
Tùy vào nhu cầu của từng khách hàng mà có rất nhiều loại hình dịch vụ
ủy thác :
• Ủy thác của cá nhân.
• Ủy thác của tổ chức
1.2.2.Khái quát hoạt động ủy thác đầu tư
1.2.2.1.Khái niệm hoạt động ủy thác đầu tư.
• Khái niệm ủy thác đầu tư: Một trong những trách nhiệm lớn nhất
của người nhận ủy thác(người thụ thác) là đầu tư sao cho hiệu quả, hợp lý
nguồn vốn ủy thác, như vậy để hiểu thế nào là “ủy thác đầu tư”, trước hết cần
hiểu rõ thuật ngữ “ đầu tư”. Trong hoạt động kinh tế, đầu tư cũng luôn là hoạt
động quan trọng của bất kỳ thành phần kinh tế nào, đó là hoạt động bỏ vốn
nhằm thu lời cho tương lai. Vì vậy đầu tư được hiểu là một quy trình từ khi
xác định nguồn tài trợ, phương thức tài trợ, chi phí của nguồn tài trợ, đầu tư
vào đâu, xác suất hiệu quả như thế nào… Đầu tư là hoạt động lâu dài vì thế
luôn luôn phải cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích kỳ vọng trong tương
lai, đòi hỏi người đầu tư phải am hiểu thị trường,kiến thức tài chính Bản
thân hoạt động đầu tư luôn tiềm ẩn những rủi ro mà nhiệm vụ của người đầu
tư là tối đa hóa lợi ích, tối thiểu hóa rủi ro. Do đó, không phải cá nhân hay tổ
chức nào có vốn cũng có thể thực hiện tốt hoạt động đầu tư. Thêm vào đó, để
đầu tư nhiều khi cần phải bỏ ra một lượng chi phí khá lớn để thu thập thông
tin mà chi phí này đôi khi lớn hơn cả lợi nhuận thu được. Từ thực tế và những
đòi hỏi trên mà dịch vụ ủy thác đầu tư ra đời nhằm đầu tư hiệu quả những
nguồn vốn để mang lại lợi nhuận tối đa.
Thuật ngữ “ủy thác đầu tư” được hiểu là: hình thức khách hàng giao
một số vốn nhất định của mình bên nhận ủy thác để tham giam gia đầu tư vào
dự án, doanh nghiệp hoặc lĩnh vực cụ thể nhằm thu được các lợi ích nhất định
từ hoạt động đầu tư nói trên.
1111
Luận văn tốt nghiệp SV: Nguyễn Thái Hà - Lớp TCDN 46B
Thực chât ủy thác đầu tư là một hình thức đầu tư gián tiếp, vậy lợi
ích của ủy thác đầu tư so với các hình thức đầu tư khác là gì? Khi một người
nắm giứ một khoản tiền nhàn rỗi, có có thể đứng trước nhiều chọn lựa đầu
tư:gửi tiết kiệm ngân hàng,mua trái phiếu chính phủ, chứng khoán hoặc trực
tiếp đem vốn đi đầu tư…Mua trái phiếu hay công trái chính phủ, gửi tiết kiệm
ngân hàng,đây là những giải pháp an toàn, mức độ rủi ro thấp nhưng tương
xứng với nó là mức lợi nhuận thu về không cao. Thông thường trong một vài
năm gần đây lãi suất trái phiếu chính phủ thường chỉ ở mức 8.5%/năm và tiền
gửi tiết kiệm khoảng 9%/năm. Trong điều kiện lạm phát ở Việt Nam đầu năm
2008, lãi suất là 11%-12%/ năm và hiện khoảng 15%/năm trong thời điểm
hiên tại. Trong khi đó đầu tư trực tiếp đem lại những mức lợi suất cao hơn gấp
nhiều lần nhưng bù lại độ rủi ro cũng cao hơn rất nhiều,đặc biệt đối với những
nhà đầu tư không chuyên nghiệp. Từ đây, sản phẩm ủy thác đầu tư ra đời là
sản phẩm trung hòa giữa 2 phương án đầu tư trên.
1.2.2.2.Hoạt động ủy thác đầu tư có những đặc điểm sau:
Dịch vụ ủy thác đầu tư là hình thức đầu tư gián tiếp trong đó, bên ủy
thác có thể lựa chọn một trong hai hình thức đầu tư: ủy thác đầu tư dự án, ủy
thác đầu tư góp vốn mua cổ phần.
Ủy thác đầu tư còn có đặc điểm riêng là:
- Tùy từng loại hình ủy thác đầu tư và tùy theo hợp đồng ủy thác mà
lợi tức bên ủy thác thu được có thể thay đổi hoặc cố định theo tình hình dự án
đầu tư, tình hình sản xuất kinh doanh. Đây chính là điểm khác biệt quan trọng
để phân biệt ủy thác đầu tư với cho vay hay gửi tiết kiệm vì trong 2 hình thức
này khách hàng thường chỉ thu được lợi tức cố định như đã thỏa thuận.
- Ủy thác đầu tư mang tính chất vô hình, không ổn định và khó xác
định chất lượng.
1212
Luận văn tốt nghiệp SV: Nguyễn Thái Hà - Lớp TCDN 46B
- Thời hạn của ủy thác đầu tư không chỉ phụ thuộc ý muốn chủ quan
của bên ủy thác mà còn phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh sản xuất,thời hạn
của dự án, do đó ủy thác đầu tư thường mang tính trung gian và dài hạn.
1.2.2.3.Mục tiêu và yêu cầu của đầu tư ủy thác:
Mỗi hợp đồng ủy thác cung cấp cho khách hàng đều có những đặc điểm
và đòi hỏi riêng vì vậy mỗi tài khoản ủy thác đều phải có mục tiêu đầu tư
riêng biệt. Một lợi tức ổn định có độ an toàn cao sẽ là thích hợp với những
khách hàng cao tuổi trong khi đó làm hài lòng các khách hàng trẻ tuổi lại là
việc theo đuổi sự phát triển thông qua khoản mục đầu tư, bao gồm đa dạng
hóa các cổ phần đem lại một tỷ lệ lợi tức lớn hơn. Như vậy,dù cho bản chất
hay nguồn gốc của nguồn vốn được ủy thác là gì đi chăng nữa thì bên thụ thác
phải tìm kiếm được lợi tức cao nhất trong phạm vi giới hạn của sự lựa chọn
các tài sản đầu tư. Nhiều giới hạn đối với việc đầu tư ủy thác, đầu tư qua các
quỹ ủy thác đã được giới hạn bởi hệ thống pháp luật và bởi chính các hợp
đồng ủy thác.
• Lợi ích giữa các bên trong hoạt đầu ủy thác đầu tư:
- Lợi ích đối với bên ủy thác: một hợp đồng ủy thác đầu tư sẽ là một
giải pháp tốt để trung hòa giữa hai thái cực rủi ra và lợi nhuận cho bên ủy
thác. Thông qua việc ủy thác đầu tư cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp( bên
thụ thác), các cá nhân, tổ chức ủy thác có thể yên tâm hơn về lợi nhuận của
các khoản đầu tư từ tài sản của mình bởi hơn ai hết những nhà đầu tư chuyên
nghiệp kia hiểu rõ nên lựa chọn đầu tư vào đâu, vào tài sản nào,có lợi nhất với
mức rủi ro thích hợp. Bên ủy thác không những được biết rõ tài sản của mình
được đầu tư vào đâu mà còn theo dõi được khả năng sinh lời của khoản vốn
đó trong suốt quá trình đầu tư.
- Lợi ích đối với bên nhận ủy thác( thụ thác): thông qua dịch vụ nhận
ủy thác đầu tư, bên thụ thác có thể huy động được một nguồn vốn nhàn rỗi
1313
Luận văn tốt nghiệp SV: Nguyễn Thái Hà - Lớp TCDN 46B
lớn với thời hạn dài,đồng thời họ cũng được chia sẻ phần nào gánh nặng rủi ro
với các bên tham gia. Đối với bên nhận ủy thác là các tổ chức tín dụng, việc
nhận ủy thác đầu tư sẽ giải quyết được vấn đề về hạn mức đầu tư mà pháp
luật qui định với các tổ chức tín dụng do đầu tư bằng nguồn vốn của người ủy
thác, huy động vốn cho các dự án một cách tốt hơn. Dịch vụ ủy thác đầu tư
góp phần làm đa dạng hóa các dịch vụ tài chính của các công ty tài chính,tổ
chức tín dụng, đông thời giúp các tổ chức này mở rộng quan hệ với khách
hàng của mình.
1.2.2.4.Các nguyên tắc và quy trình của hoạt động ủy thác đầu tư.
1.2.2.4.1.Các nguyên tắc của hoạt động ủy thác đầu tư.
• Nguyên tắc tương hỗ cho hoạt động đầu tư:
Hoạt động ủy thác đầu tư là hoạt động hỗ trợ cho chiến lược đầu tư
của các tổ chức và cá nhân trong nước, nước ngoài cho danh mục đầu
tư của công ty. Đồng thời hình thành dịch vụ tài chính mới đảm bảo
tính an toàn, hiệu quả cho toàn bộ chiến lược đầu tư hay kinh doanh
của mình.
• Nguyên tắc đảm bảo an toàn pháp lý trong hoạt động nhận ủy thác
đầu tư.
Hoạt động ủy thác đầu tư của một công ty tài chính phải tuân thủ
các quy định pháp luật có liên quan như luật đầu tư, luật quy định hoạt
động của các tổ chức tín dụng….Đối với hoạt động nhận ủy thác đầu tư
từ các tổ chức và cá nhân trong nước phải tuân thủ các quy định của
pháp luật về tỷ lệ sở hữu của tổ chức và cá nhân nước ngoài trong một
doanh nghiệp cổ phần, quy định về quản lý ngoại hối và các quy định
có liên quan khác.
• Nguyên tắc minh bạch, rõ ràng, công khai.
1414

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét