Thứ Ba, 4 tháng 3, 2014

xu hướng phát triển của các thành phần kinh tế

TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Phải có sự
phù hợp đó thì sản xuất mới phát triển được. Nếu như trong nền kinh tế, lực lượng
sản xuất phát triển với nhiều tính chất và trình độ khác nhau, tức là tồn tại nhiều quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và do đó, tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Trong đó luôn có những quan hệ sở hữu, thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo của
nền kinh tế một nước.
ở nứơc ta, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, điểm xuất phát
về lực lượng sản xuất, về phân công lao động xã hội, về năng suất lao động và trình
độ phát triển còn thấp và không đều giữa các xí nghiệp, các nghành, các vùng…trong
nền kinh tế, công cụ lao động còn tồn tại nhiều trình độ khác nhau, có cả thủ công
thô sơ, máy móc, cơ khí, tự động hoá; lao động có người không lành nghề, chưa qua
đào tạo, có người lành nghề, được đào tạo một cách có hệ thống…Do đó, tất yếu tồn
tại nhiều cách kết hợp tư liệu sản xuất với sức lao động, nhiều qui mô trình độ sản
xuất khác nhau, nhiều quan hệ sản xuất khác nhau và nhiều thành phần kinh tế khác
nhau.
Lịch sử đã cho thấy, hầu như không nước nào có một nền kình tế thuần nhất,
tức chỉ tồn tại duy nhất một thành phần kinh tế. Về mặt lý luận, cả Mác và Lênin đều
cho rằng: không có chủ nghĩa tư bản thuần tuý và không có chủ nghĩa tư bản độc
quyền thuần tuý, mà ở đó chỉ có duy nhất một quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa,
một thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Cho đến nay, nhận định này vẫn còn nguyên
giá trị, bên cạnh thành phần kinh tế tư bản tư nhân chiếm vị trí thống trị, còn tồn tại
và phát triển các thành phần kinh tế khác như: kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế sản
xuất hàng hoá nhỏ…Và Lênin cũng đã chỉ ra đặc điểm kinh tế mang tính phổ biến
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, mặc
dù ở mỗi nước, mỗi thời kỳ khác nhau, số lượng thành phần kinh tế có nhiều ít khác
nhau.
Nền kinh tế nước ta do lịch sử để lại vốn đã là một nền kinh tế có cơ cấu
nhiều thành phần. Để cải biến các thành phần kinh tế đó, cải biến quá trình sản xuất
cũ thành quan hệ sản xuất mới cao hơn, đòi hỏi phải có những điều kiện kinh tế- xã
Nguyên
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
hội, chính trị, vật chất- kỹ thuật, trình độ quản lý và một khoảng thời gian nhất định
mà đất nước ta chưa thể đáp ứng ngay được. Hơn nữa, sau nhiều năm cải tạo và xây
dung quan hệ sản xuất mới, nước ta xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế mới
như kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể…Các thành phần kinh tê cũ và mới tồn tại
đan xen vào nhau, xoắn xuýt với nhau, tạo thành đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn được bắt nguồn từ yêu cầu
của các quy luật kinh tế và trao đổi hàng hoá. Sản xuất hàng hóa, dù vẫn còn những
khuyết tật, song có nhiều ưu thế vượt trội so với sản xuất tự cung, tự cấp. Trong nền
kinh tế hàng hoá, dưới tác động của các thanh phần kinh tế như quy luật giá trị, quy
luật cạnh tranh, quy luật cung cầu thì sản phẩm được tạo ra ngày càng rẻ hơn, đẹp
hơn, nhanh hơn…
Nhưng để thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển thì trước hêt phải khôI phục
cơ sở tồn tại của nó- đó là nền kinh tế nhiều thành phần. Như vậy nếu sản xuất hàng
hoá tồn tại là tất yếu thì sự tồn tại của các thành phần kinh tế cũng là tất yếu và cần
thiết.
Hơn nữa, trong thời kỳ đổi mới, đất nứơc ta có nhiều nhiệm vụ đặt ra cần giảI
quyết như vấn đề việc làm, thực hiện công bằng xã hội…Để thực hiện được điều đó
thì không thể chỉ dựa vào nền kinh tế chỉ có nhiều thành phần kinh tế quốc doanh mà
cần phảI phát huy mọi tiềm năng về vốn, về tài nguyên thiên nhiên, trình độ quản lý,
kỹ thuật, công nghệ, không chỉ ở trong nước mà cả của nước ngoài. Mục đích đó chỉ
có thể thực hiện khi sử dụng được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế.
Chính sự tồn tại của các thành phần kinh tế đã góp phần phát huy tốt hơn mọi tiềm
năng của đất nước để phát triển kinh tế.
Như vậy, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta là
một tất yếu khách quan. Chính vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ ra: “
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên
cơ sở củng cố và giữ vững vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế quốc doanh, với
sự điều tiết và quản lý của Nhà nước là đường lối chiến lược lâu dài của nước ta”.
Nguyên
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
1.3 Khái niệm về kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó quá trình sản xuất,
phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Vì thế kinh
tế thị trường không chỉ là "công nghệ", là "phương tiện" để phát triển kinh tế - xã hội,
mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó không chỉ bao gồm các yếu tố của lực
lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy, chứng tỏ không
có và không thể có một nền kinh tế thị trường chung chung, thuần túy, trừu tượng
tách rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội của một
nước. Do đó, để phân biệt các nền kinh tế thị trường khác nhau, trước hết phải nói
đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước và nhân dân lựa chọn
làm định hướng, chi phối sự vận động phát triển của nền kinh tế đó.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền
kinh tế - xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường,
vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau,
kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là, nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và
nhóm nhân tố của xu hướng mới đang vận động, đang phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò "động lực" thúc đẩy sản xuất xã
hội phát triển nhanh, hiệu quả; nhóm thứ hai đóng vai trò "hướng dẫn", "chế định" sự
vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt tích
cực, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói rằng: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa
mang những đặc trưng chung của kinh tế thị trường, vừa mang tính đặc thù, đó là
định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường không phủ nhận các quy luật kinh tế thị trường, mà là cơ sở để xác định sự
khác nhau giữa kinh tế thị trường ở nước ta với các nước khác.
Nguyên
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Chương II
Các thành phần kinh tế và vấn đề sử dụng ở nước ta
2.1Các thành phần kinh tế ở nước ta
2.1.1.Thành phần kinh tế Nhà nước
a) Khái niệm:
Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu Nhà nước về tư liệu sản
xuất. ở nước ta kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế cơ bản bao gồm các doanh
nghiệp Nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước như đất đai, ngân sách tài
nguyên thiên nhiên…Phần góp vốn của Nhà nước vào các doanh nghiệp cổ phần hay
liên doanh với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác trong và ngoài nước.
Kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế có nhiều bộ phận hợp thành trong đó, doanh
nghiệp Nhà nước là bộ phận nòng cốt. ở nước ta, kinh tế Nhà nước được hình thành
chủ yếu bằng hai con đường: quốc hữu hoá những cơ sở kinh tế của chính quyền cũ
và một số cơ sở kinh tế của tư bản tư nhân, hoặc Nhà nước đầu tư xây dung mới từ
ngân sách tự có, vốn vay hoặc nhận viện trợ của nước ngoài.
b)Vai trò:
Nguyên
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế Nhà nước không ngừng lớn mạnh
và đóng vai trò chủ đạo, nó nắm những lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế, những
nghành, những lĩnh vực có tác động đến toàn bộ các hoạt động kinh tế- xã hội, chính
trị của đất nước như nghành điện, nứơc giao thông, thông tin liên lạc, công nghiệp
quốc phòng…Nó là một công cụ có sức mạnh vật chất mang tính quýêt định để Nhà
nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo số liệu thống kê “ tính đến cuối năm 1989 ở nước ta có 12.084 đơn vị
kinh tế quốc doanh, chiếm trên 2/3 tài sản quốc gia, 80-90% lao động lành nghề (lao
động kỹ thuật, cán bộ khoa học, cán bộ quản lý đã qua đào tạo). Tuy nhiên, hàng năm
kinh tế quốc doanh chỉ cung cấp 30-40% tổng sản phẩm xã hội, 20-30% thu nhập
quốc dân, hao phí nguyên, nhiên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm, cao gấp 2-3 lần
mức trung bình của thế giới. Vấn đề cốt yếu của kinh tế hàng hoá là chất lượng sản
phẩm lại ít được chú ý. Nhìn chung từ năm 1990 trở về trước, tỷ lệ giữa mức đóng
góp của kinh tế quốc doanh so với mức chi ngân sách Nhà nước cho khu vực này
là1:3.
Như vậy, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh chưa được đảm bảo. Nguyên
nhân là do ý thức chủ quan, duy ý chí, coi các đơn vị kinh tế quốc doanh càng nhiều
thì càng mau chóng xây dung thành công chủ nghĩa xã hội mà không chú ý đến hoạt
động sản xuất kinh doanh. Từ nhận thức sai lầm đó, các đơn vị kinh tế quốc doanh
chỉ có số lượng mà không có chất lượng hầu như không có sức cạnh tranh trên thị
trường.
Hơn nữa, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp được duy trì trong một thời gian
dài cũng là một nguyên nhân làm cho thành phần kinh tế này không làm tròn chức
năng của mình. Hàng năm ngân sách Nhà nứơc chi bao cấp hàng nghìn tỷ đồng cho
các đơn vị hoạt động sản xuất nhưng việc thu hồi thì rất nhỏ. Vịêc bù lỗ, bù tiền
lương…càng làm giảm sự kích thích nâng cao hiệu quả hoạt động. Vấn đề quản lý
còn chồng chéo giữa quản lý kinh tế Nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh của
các đơn vị cũng là vấn đề nan giải. Khi quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích
Nguyên
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
không gắn lion với nhau thì không thể có động lực cho việc nâng cao năng suất, mà
còn đem lại nhiều tiêu cực như tham nhũng, làm thất thoát tài sản…
Trình độ kỹ thụât, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý hạn chế… tất cả tạo
nên một bức tranh ảm đảm của nền kinh tế mà kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ
đạo.
Sau đại hội Đảng lần thư VI, nước ta bắt xoá bỏ dần nền kinh tế quan liêu bao
cấp, bước vào nền kinh tế thị trường. Nhà nước chuyển sang chế độ hoạch toán kinh
tế và kinh doanh, đề ra nhiều đổi mới và sắp xếp. Chỉ trong vài năm số doanh nghiệp
Nhà nước giảm mạnh, chủ yếu là các cơ sở làm ăn thua lỗ, không đứng vững được
trong cạnh tranh. Điều này đã làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, giúp
Nhà nước có thể đầu tư hơn vào các lĩnh vực trọng yếu. Sau một thời gian đầy biến
động do việc đổi mới cơ chế quản lý, các doanh nghiệp Nhà nước đã dần dần đi vào
ổn định và phát triển. Gần đây sau khi thành phần kinh tế quốc doanh đổi tên thành
thành phần kinh tế Nhà nước thì mục đích, phương hướng, những ưu khuyết điểm
của nó được xác định rõ ràng hơn. Để có thể khắc phục những khó khăn, vướng mắc
như công nghệ còn lạc hậu, trình độ quản lý kém…và để thực hiện tốt vai trò chủ đạo
của mình, thành phần kinh tế Nhà nước cần thực hiện những biện pháp sau:
-Tiếp tục đổi mới, tổ chức, sắp xếp lại các thành phần, các đơn vị kinh tế để
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả.
-“ Tập trung phát triển kinh tế Nhà nước trong những nghành, những lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế như hệ thống ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, cơ sở hạ
tầng…; các cơ sở, doanh nghiệp trọng yếu, đặc biệt là các doanh nghiệp có liên quan
đến an ninh quốc phòng. Chủ yếu là với qui mô lớn và vừa”
-Từng cơ sở, đơn vị hoạt động kinh tế cần giải quyết các vấn đề sau:
+ Đổi mới công nghệ và cách thức tổ chức quản lý, đào tạo, nâng cao tay
nghề, trình độ của công nhân, cán bộ quản lý.
+ Đặt mình trong môi trường tự do cạnh tranh, hợp tác và bình đẳng với các
thành phần kinh tế khác.
Nguyên
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
+ Đi vào hoạt động ở những nghành, những lĩnh vực có lãi ít, thu hồi vốn
chậm, nhiều rủi ro mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư như cơ sở hạ tầng,
hoạt động ở vùng sâu, vùng xa…( Nhà nước sẽ có những ưu đãI đối với các doanh
nghiệp này).
+ Hạn chế đi đến xoá bỏ các hành vi tiêu cực như tham nhũng, hối lộ, lạm
dụng chức quỳên…
+ Các đơn vị xác định rõ mục đích hoạt động của mình. Nếu hoạt động vì lợi
nhuận phải thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế, hơn nữa các đơn vị cần mở rộng
quyền tự chủ, tự bù đắp chi phí sản xuất, có trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ cụ
thể, được khuyến khích bằng lợi ích vật chất…
Một hình thức doanh nghiệp đang được khuyến khích phát triển đó là cổ phần
hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Mục đích của việc làm này là nhằm thu hút nguồn
vốn từ người lao động, hạn chế tiêu cực, nâng cao tinh thần lao động. Đặc biệt Nhà
nước có chính sách động viên chính các cán bộ, công nhân của doanh nghiệp mua cổ
phần. Trong các doanh nghiệp đó, Nhà nước nắm phần lớn cổ phần hoặc cổ phần
khống chế. Việc thực hiện cổ phần hoá đã được tiến hành thí điểm ở thành phố Hồ
Chí Minh và đang được nhân rộng. Vấn đề còn vướng mắc là Nhà nước cần hoàn
chỉnh quy chế và tiêu chuẩn lựa chọn hội đồng quản trị, giám đốc điều hành và tuyên
truyền cho mọi người thấy lợi ích to lớn của việc cổ phần hoá.
2.1.2Thành phần kinh tế tập thể
a) Khái niệm:
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao
động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lý theo nguyên tắc tập trung, bình
đẳng cùng có lợi.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác dựa
trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể; liên kết rộng rãI những người lao
động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần
kinh tế; không giới hạn quy mô và địa bàn( trừ một số lĩnh vực có quy định riêng);
Nguyên
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo
nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, cả người người ít
vốn và người nhiều vốn, cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự
nguyeenm bình đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ.
b) Vai trò:
Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích các thành viên và
lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên, góp phần xóa đói
giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên.
ở khu vực nông nghiệp và nông thôn, phát triển kinh tế tập thể phảI trên cơ sở đảm
bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại gắn với tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hoá nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; không ngừng nâng cao năng suất,
hiệu quả và sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế.
Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng mà nòng cốt là hợp tác
xã nhằm góp phần tích cực thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.Khu vực HTX vẫn đang là điểm tựa cho hàng chục triệu xã viên và người lao
động, là lực lượng không thể thiếu trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm
nghèo, tạo công ăn việc làm, ổn định chính trị, xã hội.
Những năm gần đây, khu vực kinh tế hợp tác, HTX Việt Nam đã có những
bước phát triển mới và đã đóng góp 8% GDP của nền kinh tế. Đặc biệt các HTX đã
tham gia tích cực vào việc thực hiện chính sách của Đảng, nhà nước về việc xóa đói
giảm nghèo.Đến hết 6/2007, cả nước có trên 320.000 tổ hợp tác, tăng 32,6%, số hợp
tác xã là 17.599, tăng17,8% so với năm 2001. Các tổ hợp tác, HTX thu hút trên 12,5
triệu xã viên là người lao động, các hộ kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, các doanh
nghiệp nhỏ.
2.1.3.Thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
a) Khái niệm:
Nguyên
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất và chế độ bóc lột lao động làm thuê. Nó bao gồm những đơn vị kinh
tế mà 100% vốn của tư nhân, hoặc số vốn của họ chiếm tỷ lệ khống chế. Kinh tế tư
bản tư nhân gồm cả kinh tế do lịch sử để lại, còn đa số được hình thành trong thời
gian gần đây Đảng ta đã chỉ rõ “khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất,
yên tâm làm ăn lâu dài, bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện
thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi
cho quốc kế dân sinh”.
b)Vai trò:
Thành phần kinh tế này nắm tiềm năng khá lớn về vốn, kỹ thuật, công nghệ,
kinh nghiệm và trình độ quản lý, do đó, nó có vai trò to lớn trong việc phát triển lực
lượng sản xuâts, giảI quyết làm việc, tăng thu nhập quốc dân, nâng cao đời sống. Tuy
vậy, đối với nước ta, kinh tế tư bản tư nhân chưa phát triển mạnh mẽ vì:
-Chúng ta còn có quan niệm giản đơn, cho rằng chủ nghĩa xã hội là nền sản
xuất phi hàng hoá, là sự kế hoạch hoá, tập trung….vì thế, chúng ta đã nôn nóng xoá
bỏ các thành phần kinh tế cũ, xoá bỏ nền kinh tế hàng hoá…không thấy được sự tồn
tại của nó là một tất yếu khách quan mà chỉ muốn xoá bỏ nó càng nhanh càng tốt.
Đây là quan niệm không biện chứng, xã hội mới ra đời phải trên cơ sở xã hội cũ, phát
huy những tích cực của xã hội cũ, chỉ thủ tiêu những gì là tiêu cực thôi.
Từ khi có nhận thức đúng đắn về vấn đề này, nhà nước đã có những chính
sách khuyến khích thành phần kinh tế tư bản tư nhân phát triển trong các lĩnh vực
như giao thông vận tải, may mặc, xuất khẩu, khách sạn, du lịch,…Nó góp phần
không nhỏ vào việc đáp ứng nhu cầu xã hội, huy động được nguồn vốn lớn của các
nhà tư bản đặc biệt là các công ty nước ngoài đầu tư vào nước ta, góp phần vào sự
tăng trưởng của nền kinh tế .
Tuy nhiên, sự phát triển của thành phần kinh tế này mới tập trung ở những
lĩnh vực thương nghiệp, dịch vụ, khách sạn với quy mô và dự án nhỏ chứ chưa phát
triển mạnh trong lĩnh vưc sản xuất –kinh doanh. Các khu công nghiệp (IZS) và khu
chế xuất (EPZs) hoạt động thiếu hiệu quả. Sở dĩ vậy là vì
Nguyên
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
- Chúng ta chưa tạo được niềm tin vững chắc, nhất quán và lâu dài trong chính
sách đối với kinh tế tư bản tư nhân, do đó họ thiên về những hoạt động dễ sinh lợi và
có thể thu hồi vốn đầu tư nhanh khi điều kiện thay đổi.
- Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thuận lợi.
+ Luật đầu tư chưa đồng bộ, còn nhiều thủ tục phiền hà, tốn thời gian, tiền của,
thậm chí là lỡ cơ hội đầu tư.
+ Lạm phát tuy đã được kiềm chế song khả năng bộc phát lại còn rất cao, dễ
dẫn tới rủi ro.
+ Cơ sở hạ tầng vật chất xã hội còn thấp kém…
+ Đồng tiền Việt Nam có giá trị quá thấp so với đồng tiền ngoại tệ.
- Nền kinh tế nước ta còn nhiều yếu kém, tích luỹ nói chung và tích luỹ của
dân cư còn nhỏ.
Để có thể khai thác được mọi tiềm năng của thành phần kinh tế này chúng ta
cần thực hiện:
- Khuyến khích thành phần kinh tế tư bản tư nhân phát triển không hạn chế về qui
mô, phạm vi hoạt động trong các nghành nghề pháp luật cho phép.
- Hoàn chỉnh luật đầu tư, tạo niềm tin cho các nhà tư bản đầu tư vào nước ta.
- Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy, cải cách hệ thống hành chính, giảm
bớt thủ tục phiền hà…Ví dụ: hoàn thiện chế độ đăng kí kinh doanh, thuế, hợp đồng
kinh tế.
- Nhà nước đẩy mạnh liên doanh với các tư bản tư nhân trong và ngoài nước để
hình thành loại hình kinh tế tư bản Nhà nước.
2.1.4.Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước.
a) Khái niệm:
Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa kinh
tế Nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài bằng nhiều phương
pháp góp vốn hợp tác liên doanh.
b) Vai trò:
Nguyên

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét