Thứ Hai, 10 tháng 3, 2014

Biến đổi khí hậu vùng trọng điểm trồng lúa của tỉnh Nghệ An trong hơn 40 năm trở lại đây.



Dãy Trường Sơn là một khối núi đồ sộ ở bán đảo Đông Dương chạy theo biên giới
Việt_ Lào, nó vừa là biên giới tự nhiên giữa hai nước vừa ranh giới khí hậu của hai khu
vực.
ở Nghệ An, dãy Trường Sơn chạy theo hướng Tây Bắc _ Đông Nam đối lập hoàn
toàn với hướng gió mùa Đông Bắc trong mùa đông và gió Tây nam trong mùa hè, nên gây
ra hiệu quả đáng chú ý nhất là:
Trong mùa đông : gió mùa Đông bắc về khu vực Nghệ An thì gặp phải dãy Trường
Sơn, trong đó có những nhánh đâm ngang ra biển nên buộc lòng các khối không khí phải
đi lên sườn núi. Khi dòng khí này tràn về mạnh thì nó có thể tràn qua các dãy núi này để
tràn vào Bình _Trị _Thiên, thậm chí vượt cả đèo Hải Vân để vào cả Nam Trung Bộ.
Nhưng đa số trường hợp thì nó thường tĩnh lại ở đây và gây ra hiệu ứng mưa trước núi.
Cho nên ở Bắc bộ khi gió mùa đông Bắc tràn về, nhất là thời kì đầu mùa (tháng 11 đến
trung tuần tháng Giêng), trời nhiều mây hoặc chỉ có mưa nhẹ, tuy không bằng Kỳ Anh (Hà
Tĩnh ) nhưng Nghệ An nằm trong hậu phương không khí lạnh nên có mưa khá nhiều. Đặc
biệt, khi gió mùa Đông Bắc tràn về ở đây lại có bão hoặc áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào phía
Nam thì mưa lại càng lớn.
Đó là lý do mà mùa mưa ở Nghệ An bị kéo dài và kết thúc muộn vào tháng 11,
tháng 12.
Bảng 1.2. Lượng mưa (mm) 2 tháng đầu mùa đông ở một số nơi [1]
Vùng

Lượng mưa
Hà Nội Thanh Hoá

Vinh Kỳ Anh
Tháng11
Tháng 12
43
23
69
28
173
71
428
201

Trong mùa hè: gió mùa Tây Nam thường thổi từ ấn Độ Dương tới, sau khi đã trải
qua một chặng đường dài của vùng lục địa Thái Lan, Lào…làm mất một phần hơi ẩm, khi
qua dãy Trường Sơn sang đến Việt Nam dưới tác dụng của dòng giáng , khối không khí
này trở nên khô và nóng. Vì gió có hướng Tây Nam hoặc Nam Tây Nam lại thổi từ Lào
sang, nên người dân thường gọi là gió Nam Lào, hay bão Lào (vì gió Lào có khi lên đến


cấp 7 & cấp 8), trong chuyên môn gọi đó là gió Tây khô nóng. Do gió Tây khô nóng mà
mùa mưa ở Nghệ An bị gián đoạn. Sau kỳ mưa tiểu mãn vào tháng 5, đến tháng 6, tháng 7
gió Lào bắt đầu thịnh hành thì lượng mưa giảm hẳn. Cho nên, biến trình mưa năm ở Nghệ
An thường có hai đỉnh. Trong khi đó ở Bắc Bộ & Thanh Hoá ít bị ảnh hưởng của gió mùa
Tây nam nên biến trình mưa chỉ có một đỉnh.

Bảng1.3. Lượng mưa (mm) 4 tháng (4,5,6,7) ở một số nơi [1]
vùng
lượng mưa
Hà Nội Thanh Hoá Vinh Kì Anh
Tháng4
Tháng5
Tháng6
Tháng7
90
188
240
288
58
142
198
192

64
133
120
118
76
133
127
141

1.1.2.2. Bờ biển Nghệ An.
Kéo dài ở phía Đông với chiều dài gần 90 km cũng là một yếu tố địa lý chi phối khí
hậu, thời tiết khá mạnh mẽ, nó có tác dụng điều hoà khí hậu rộng lớn trên lục địa. Chính vì
thế mà ngay trong trong những tháng khô hạn nhất độ ẩm ở Nghệ An Trung bình vẫn trên
70% và mùa hè cũng không giảm nóng so với nguồn năng lượng khổng lồ mà mặt trời toả
xuống, còn mùa đông cũng không giá lạnh như đã nói ở trên

1.1.2.3. Nhìn tổng thể địa hình Nghệ An có 3 vùng rõ rệt : vùng núi, trung du và đồng
bằng.
Dọc theo biên giới Việt Lào có nhiều núi cao điển hình như Phu Hoạt (2452m),
Phũalaileing(2711m) tạo nên vành đai đồ sộ. Vùng núi thấp và trung du rộng lớn nối liền
giữa miền núi và đồng bằng địa hình khá phức tạp có nhiều đồi và núi thấp.Vùng đồng
bằng ven biển nhỏ hẹp lại có những ngọn núi đâm sát ra biển. Cho nên, tạo thành những
vùng tiểu khí hậu. Do ảnh hưởng của vị trí địa lý, địa hình và hình thái địa mạo, khí hậu
Nghệ An có sự phân hoá mạnh mẽ và có những nét đặc thù riêng.


Do vị trí địa lý và địa hình đặc thù đã tạo cho Nghệ An một sự phong phú và đa
dạng về khí hậu. Ngoài quy luật chung của khí hậu Nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh
thì Nghệ An còn có những đặc điểm riêng và những vùng tiểu khí hậu như: Vùng Trung
tâm rét lạnh Phủ Quỳ, dãi khô hạn Tương Dương, trung tâm mưa lớn Môn Sơn – Châu
Quê
1.2.Đặc điểm khí hậu tỉnh Nghệ An
Do tính chất nghiên cứu đặc điểm khí hậu Nghệ An ảnh hưởng đến sản xuất lúa,
nên trong khi xem xét các quy luật khí hậu của tỉnh tôi chỉ đặc bịêt quan tâm đến quy luật
khí hậu của từng vụ lúa chính ở một vài vùng trọng điểm trồng lúa của tỉnh – vùng đồng
bằng ven biển: Quỳnh Lưu, Đô Lương, Vinh.

1.2.1. Đặc điểm khí hậu vụ lúa Đông Xuân
Gieo cấy từ tháng 12 năm trước và thu hoạch vào tháng 6 năm sau. Diện tích gieo
cấy khoảng 80-81 ngàn ha, chủ yếu ở những nơi chủ động nước, tập trung lớn nhất ở 3
huyện Đô lương, Quỳnh Lưu, Vinh.
Đây là vụ lúa được gieo trồng trong điều kiện thời tiết tương đối ổn định và có năng
suất cao nhất trong năm.
Tuy nhiên cây lúa gieo cấy vào vụ này cũng gặp không ít điều kiện bất lợi như giá
rét lúc gieo cấy, gió Tây khô nóng khi lúa trổ chín.

1.2.1.1.Nhiệt độ trong vụ đông xuân (từ tháng 11 đến tháng 4).
Trong vụ Đông xuân yếu tố có ảnh hưởng quan trọng nhất đến thời vụ và cơ cấu
cây trồng là nhiệt độ. Gặp năm ấm vào đầu vụ mạ chóng già phải bỏ đi gieo cấy lại, nếu
ẩm liên tục lúa sẽ phát triển rất nhanh, trỗ sớm gặp rét tháng 4 năng suất thấp (năm 1990 -
1991). Ngược lại nếu rét vào đầu vụ mạ và lúa mới cấy bị chết làm cho chi phí sản xuất
tăng cao, song đến khi lúa trổ sẽ gặp thuận lợi cho năng suất cao nhưng lại làm trễ vụ Hè
thu. Cho nên ta cần chú ý nhiều đến nhiệt độ trong vụ sản xuất này. Trước hết, đó là sự
dao động về ngày bắt đầu và kết thúc mùa lạnh. Mùa lạnh là các ngày có nhiệt độ trung
bình nhỏ hơn 20
o
C. Một cách ổn định thì ở vùng đồng bằng ven biển thường bắt đầu từ
cuối tuần 3 tháng 11 của năm trước và kết thúc vào trung tuần tháng 3 năm sau. Vùng núi


mùa lạnh ngắn hơn đồng bằng do không khí lạnh cuối mùa ít có khả năng xâm nhập tới
đây, trong khi đó luồng không khí phía tây lại khống chế.
Mùa lạnh bắt đầu và kết thúc vào những thời kỳ đã nêu trên nhưng cũng có những
năm mùa lạnh lại bắt đầu sớm hơn trung bình đến 1 tháng và kết thúc muộn hơn một thời
gian tương tự. Còn thời gian xảy ra tháng rét nhất trong mùa lạnh thì có năm xảy ra vào
đầu mùa, có năm giữa mùa và cũng không ít năm xảy ra vào cuối mùa. Thông thường
những năm có rét đậm thì nhiệt độ trung bình có thể thấp hơn 1 vài độ so với nhiệt độ
trung bình nhiều năm và những năm ấm thì nhiệt độ cũng cao hơn nhiệt độ trung bình
nhiều năm một trị số tương tự.
Vụ đông xuân ở Nghệ An kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 5 năm sau bao
gồm toàn bộ mùa lạnh và thời gian chuyển tiếp từ mùa nóng sang mùa lạnh, từ mùa lạnh
sang mùa nóng. Với thời gian kéo dài lại bao gồm nhiều thời kỳ khác nhau mà biến đổi
thời tiết diễn ra trong vụ rất phức tạp. Đặc biệt nhiệt độ không khí trong vụ đông xuân có
những biến động rất lớn. Những hiện tượng rét, rét đậm, rét hại mà kéo dài trong nhiều
ngày có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sản lượng cây trồng vật nuôi.
Nhiệt độ trung bình tháng đầu vụ ở các nơi đều đạt 20,6 – 21,5
o
C, tháng cuối vụ các
nơi đạt trên 20
o
C. Tháng một là tháng chính đông.
Nhiệt độ không khí cao nhất tuyệt đối các tháng đầu đến giữa vụ đông xuân phổ biến
từ 33,5 – 38
o
C, các tháng cuối vụ là 38 - 40
o
C.
Trong vụ Đông xuân ở Nghệ An vẫn có những ngày nắng nóng nhiệt độ cao. Những
năm thời gian có nhiệt độ cao tạo điều kiện cho cây lúa, cây ngô phát triển nhanh. Đặc biệt
thời gian đầu vụ mà nắng ấm kéo dài, nhiệt độ cao thì gây ra mạ già, mạ ống như vụ đông
xuân năm 1997 – 1998.
Nhiệt độ tối thấp tuyệt đối trong nhiều năm xẩy ra chủ yếu vào tháng 1. ở vùng núi
Nghệ An vào tháng 12 – tháng 1 hàng năm vẫn có những ngày xảy ra băng giá, nhiệt độ hạ
xuống rất thấp, có những năm đã xuống dưới 0
o
C. Đặc biệt ngày 2/1/1974 Nhiệt độ không
khí tuyệt đối đã xảy ra trị số thấp lịch sử (từ -0,3 đến – 0,5
o
C ) ở vùng núi cao và các nơi
khác nhiệt độ xuống dưới 5,7
o
C.
Biên độ nhiệt độ ngày trong vụ đông xuân ở Miền núi từ 7,9 - 9
o
C, trung du 7,2- 7,5

o
C, đồng bằng 5,2 – 5,6
o
C.


Bảng1.4. Nhiệt độ (
o
C) trung bình các tháng vụ Đông xuân.

Tháng
vùng
XI XII I II III IV TB
Quỳnh lưu 21,5 18,7 17,4 17,9 20,2 23,7 19,9
Đô lương 21,5 18,7 17,6 18,2 20,7 24,3 20,2
Vinh 21,5 18,7 17,5 17,9 20,4 24,0 20,0

1.2.1.2. Lượng mưa trong vụ đông xuân.
Tổng lượng mưa trong vụ đông xuân phân bố không đều theo không gian một cách
rõ rệt :Vùng núi phía Tây Nam ( Kỳ sơn,Tương Dương ) phổ biến từ 160-200mm, vùng
Tây Bắc từ 200-250 mm,vùng trung và hạ lưu sông Cả từ 250-450mm. Tuy nhiên, tổng
lượng mưa 6 tháng vụ Đông xuân chỉ chiếm từ 13-22% tổng lượng mưa năm. Tổng lượng
mưa của các tháng trong vụ đông xuân có sự biến động lớn, năm mưa nhiều có thể gấp
hàng chục lần năm mưa ít.
Trong tháng 11 là tháng bắt đầu mùa lạnh, lượng mưa trung bình của vùng núi đạt
từ 40-70 mm, vùng trung du và đồng bằng ven biểntừ 70-150mm. Đáng chú ý là lượng
mưa của nửa đầu tháng XI biến động lớn.Ví dụ: tại thành phố Vinh, lượng mưa trung bình
nhiều năm tuần 1 tháng 1 là 68mm, nhưng lượng mưa cùng thời kỳ vào năm 1976 lên tới
405 mm, ngược lại có năm chỉ đạt dưới 1mm (1993 - 1994).
Tháng 12: Mưa giảm xuống đáng kể vùng núi từ 10-20mm,vùng đồng bằng phổ
biến từ 30-50mm.
Từ tháng 1đến tháng 3: là thời kỳ mưa phùn ẩm ướt, lượng mưa hàng tháng từ 15-
45mm, riêng vùng Tương Dương và Kỳ Sơn có lượng mưa ít hơn. Hạ tuần tháng 3 bắt đầu
đã có những trận mưa rào và dông nên lượng mưa đã tăng lên rõ rệt.
Tháng 4: là tháng chuyển tiếp từ mùa lạnh sang mùa nóng, thời kì này có nhiễu
động thời tiết xẩy ra mưa lớn . Cho nên lượng mưa tăng lên nhiều so với các tháng trước.
Tháng có lượng mưa nhỏ nhất trong năm có khả năng xẩy ra từ tháng11- 3, vùng núi
xẩy ra từ tháng 12 với tần suất từ 24- 42%, xẩy ra vào tháng 1 với tần suất thấp hơn.
Bảng1.5: Lượng mưa (mm) trong các tháng vụ Đông Xuân
XI XII I II III IV R vụ Rnăm Tỷ


Tháng
vùng
lệ(%)
Quỳnh Lưu 89.7 31.7 22.1 25.0 28.4 58.6 255.5 1592.5 16.0
Đô Lương 109.3 36.2 31.4 32.6 38.1 83.3 330.9 1804.0 18.3
Vinh 173.0 70.7 54.8 43.4 47.9 63.3 453.1 2079.8 21.8

1.2.1.3.Nắng vụ Đông Xuân.
Tổng số giờ nắngtrong vụ Đông xuân phổ biến từ 530-600 giờ nắng chiếm 31-39%
số giờ nắng trong năm. Nhìn chung số giờ nắng các tháng đầu và cuối vụ nhiều hơn các
tháng giữa vụ.
Trong vụ Đông Xuân nắng có đặc điểm là ít gay gắt nên thuận lợi cây cối trong việc
tích luỹ chất khô để hình thành sản lượng. Lượng mưa trong mùa này nhiều và màn mây
thấp nên số giờ nắng ít
Bảng 1.6. Số giờ nắng trung bình trong vụ Đông Xuân

Tháng
Trạm
XI XII I II III IV Cả vụ
Quỳnh Lưu 127.1

115.6

88.9 55.7 75.8 134.7 597.7
Đô Lương 110.2

106.3

80.5 50.4 77.5 126.4 551.3
Vinh 104.3

91.0 76.6 50.3 72.5 133.9 528.6

1.2.1.4.Những bất lợi của thời tiết vụ lúa Đông Xuân.
Vào đầu vụ đông xuân, do hoạt động mạnh mẽ của gió mùa Đông Bắc nhất là các
đợt gió mạnh đã gây ra nhưng hậu quả nặng nề cho thời vụ Đông Xuân.
Hậu quả đầu tiên phải kể đến là những đợt rét đậm , rét hại.
Trời rét là những ngày có nhiệt độ xuống dưói 20
o
C. Thực tế cho thấy khi nhiệt độ
ổn định trên 15
o
C thì mạ xuân và lúa xuân mới cấy có thể phát triển ổn định.
Rét đậm là những ngày có nhiệt độ xuống dưới 15
o
C.

Số ngày nhiệt độ trung bình
giảm xuống 15
o
C. trong vụ đông Xuân ở vùng đồng bằng là 16- 22 ngày , xẩy ra nhiều
nhất trong tháng 1:7-9 ngày.


Rét hại là những ngày có nhiệt độ trung bình xuống dưới 13
o
C.Các đợt rét hại xẩy
ra chủ yếu từ tuần thứ 2 tháng 12 đến hết tháng 2. Trong đó đặc biệt tuần thứ 2 tháng 1 đến
tuần 1 tháng 2. Đây là thời kì gieo mạ không an toàn. Vì vậy cần gieo mạvào thời vụ để nó
phát triển đến 3 lá trước tuần 1 tháng 1 ,hoặc gieo sau tuần 1 tháng 2 (gieo mạ bổ sung do
rét bị chết). Số ngày có nhiệt độ 13
o
C, trung bình nhiều năm ở vùng đồng bằng 1-8 ngày.
Nếu rét vào đầu mùa mạ và cây lúa mới cấy dễ bị chết cóng làm cho chi phí sản
xuất tăng cao.
Tuy nhiên, nếu gặp năm ấm vào đầu vụ mạ chóng già phải bỏ đi gieo cấy lại, nếu
ấm liên tục lúa phát triển nhanh, trỗ sớm gặp rét tháng 4, cho năng suất thấp(1990_1991).
Hanh heo cũng là một hậu quả của không khí lạnh. Đặc trưng của những ngày có
hanh heo là ban ngày trời vẫn nắng nhưng nhiệt độ hạ thấp, ban đêm trời quang mây, giá
lạnh, độ ẩm nhỏ. Nếu thời gian hanh heo kéo dài gây hạn hán nghiêm trọng cho vụ đông
xuân.
Vào tháng 12 năm trước đến tháng 3 năm sau thường xẩy ra hiện tượng ánh sáng
quá yếu do trời âm u kéo dài (hiện tượng nhiều mây, mưa phùn, ẩm ướt ).Trung bình mỗi
năm ở vùng đồng bằng ven biển có đến 20-41 ngày mưa phùn. Hậu quả của việc thiếu ánh
sáng là làm cho cây lúa quang hợp yếu, đặc biệt làm cho sâu bệnh phát triển và gây hại,
nhất là bệnh đạo ôn trên lúa.

1.2.2.Đặc điểm khí hậu vụ lúa Hè thu
Gieo trồng vào tháng 5, thu hoặch vào tháng 9.
Đây là vụ mới được hình thành từ năm 1981-1982 _tiền thân của nó là lúa chạy lụt.
Sau khi có tiến bộ kĩ thuật về giống cây trồng: có giống lúa ngắn ngày năng suất cao, chịu
nắng nóng thích ứng rộng, để thu hoạch trước 15/9.
Từ khi hình thành vụ hè thu, cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ trong năm được thay
đổi cơ bản theo hướng tích cực, né tránh điều kiện bất lợi của thời tiết.
Vụ Hè thu không chỉ dừng lại ở mục tiêu né tránh mà thực sự trở thành một vụ sản
xuất chính trong năm, một vụ hè thu thâm canh và toàn diện, quy mô năng suất và sản
lượng năm sau đều cao hơn năm trước.
Bảng 1.6. Kết quả sản xuất hè thu từ năm 1981-1999 [1]


Thời kỳ Kết quả sản xuất hè thu So sánh năng sất lúa
Diện
tích(ha)
Năng
suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(Tấn)
Lúa c

năm
Lúa
đông
xuân
Lúa
mùa
81-85
86-90
91-95
96-99
19.166
35.083
43.976
46.937
22,01
24,62
29,34
34,23
42.181
86.307
129.013
158.832
+5,8
+9,7
+11,5
+4,6

-18,8
-16,8
-8,6
-18,6
+3,36
+7,23
+6,85
+7,64

1.2.2.1 Nhiệt độ không khí vụ Hè thu từ tháng 5 đến tháng 10.
Nhìn chung trong cả vụ hè thu nhiệt độ khá cao. Bốn tháng đầu và giữa vụ từ tháng
5 đến tháng 8 nhiệt độ trung bình ở vùng núi từ 27
o
C – 27,5
o
C, đồng bằng từ 27,5
o
C –
29,5
o
C. Nhiệt độ không khí trung bình trong vụ từ 26,7
o
C – 27,7
o
C. Tháng có nhiệt độ
trung bình lớn nhất vào tháng 7 từ 28
o
C – 29
o
C. Riêng khu vực Vinh nhiệt độ trung bình
nhiều năm tháng 7 đạt 29,6
o
C cao nhất tỉnh.
Đáng chú ý là ngay từ đầu vụ do ảnh hưởng của gió Tây nam khô nóng nhiệt độ
tăng lên rất cao. So với tháng 4 nhiệt độ trung bình tháng 5 tăng lên từ 2 – 3,7
o
C.
Nhiệt độ không khí tối cao tuyệt đối trong các tháng đầu vụ thè thu (từ tháng 5 đến
tháng 7) ở khu vực miền núi và thành phố Vinh lên trên 40
o
C. Khu vực đồng bằng 38,5
o
C
- 40
o
C. Nhiệt độ không khí tối cao nhiệt đối vào 3 tháng cuối vụ từ tháng 8 – tháng 10 đều
dưới 40
o
C.
Nhiệt độ không khí thấp nhất tuyệt đối chủ yếu xảy vào thời kỳ cuối vụ (tháng 10)
với trị số từ 10,2 – 15
o
C. Nhiệt độ thấp nhất vào tháng 7 – tháng 8 ở các địa phương đều
trên 20
o
C, cao nhất tại Đô Lương 22
o
C.
Nhiệt độ không khí tối thấp trung bình các tháng trong vụ hè thu phổ biến từ 23
o
C
– 24,7
o
C. Tháng có nhiệt độ tối thấp trung bình là tháng 10 từ 20,3 – 21,1
o
C ở Miền núi,
và 21,1
o
C - 22
o
C ở vùng đồng bằng ven biển. Tháng 10 là tháng đầu mùa lạnh gió mùa
đông bắc thịnh hành cho nên nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối dưới 13
o
C.
Chênh lệch nhiệt độ tối thấp trung bình tháng đầu và cuối vụ là từ 2 – 2,8
o
C.


Biên độ nhiệt độ ngày trong vụ hè thu là 8,8 – 9,8
o
C vùng trung du là 7,8 – 8,4
o
C
và đồng bằng ven biển là 6,8 – 7
o
C.
Bảng1.7. Nhiệt độ (
o
C) trung bình các tháng vụ Hè thu.

Tháng Địa
Phương
V VI VII VIII IX X Trung
bình
Quỳnh lưu 27,4 29,0 29,3 28,3 26,8 24,4 27,5
Đô lương 27,6 28,7 29,0 28,0 26,6 24,4 27,4
Vinh 27,7 29,4 29,6 28,6 26,8 24,3 27,7

!.2.2.2. Quy luật diễn biến mưa trong vụ Hè thu.
Mùa mưa với vụ Hè thu do sự khống chế thường xuyên của các khối không khí có
nguồn gốc từ biển.Vì vậy, lượng mưa trong mùa mưa đã chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
lượng mưa năm.
Tổng lượng mưa của các tháng mùa mưa ở các nơi thuộc vùng núi phía bắc của tỉnh
phổ biến từ 1000-1500 mm, vùng đồng bằng ven biển phía Nam của tỉnh dao động từ 1600
– 1800 mm. Trong đó lượng mưa tập trung từ tháng 8-9-10 chiếm từ 55% đến 65% lượng
mưa năm.
Do lượng mưa trong mùa mưa gây nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế đặc biệt là
đến sản xuất Nông nghiệp, nên ta cần nghiên cứu để hiểu sâu hơn về qui luật diễn biến của
chúng.
Bảng 1.8. Lượng mưa tháng(mm) trong vụ lúa Hè Thu


Tháng
vùng
V VI VII VIII IX X R vụ R năm Tỷ lệ
Quỳnh
Lưu
101.4 143.3

119.5

230.2

418.3

328.1

1340.8

1592.5

84.2
Đô Lương 152.1 145.2

148.2

249.3

415.3

363.2

1582.6

1804.0

87.7


Vinh 132.4 119.3

115.6

220.3

527.8

511.4

1799.8

2079.8

86.5

Tháng 5: Bắt đầu của gió mùa mùa hạ , hai hệ thống thời tiết chính là áp thấp nóng
phía Tây và lưỡi cao áp Thái Bình dương đã chi phối đến thời tiết của tỉnh vơí tần suất khá
cao .Chính sự giao tranh giữa hai hệ thống thời tiết có nguồn gốc và bản chất vật lý khác
nhau này đã tạo nên sự bắt đầu của mùa mưa trong tháng 5 tăng nhanh và khá đồng đều
trên toàn tỉnh,(lượng mưa phổ biến từ 100-200 mm). Đây cũng là thời kỳ thường sinh ra lũ
tiểu mãn.
Tháng 6-7: ưu thế tuyệt đối thuộc về hệ thống áp thấp nóng phía Tây, hệ thống thời
tiết phía đông giảm xuống mức thấp nhất. Đây là thời kỳ nắng nóng nhất trong năm, lượng
mưa tháng đã giảm xuống rõ rệt ở các vùng trong tỉnh, các nơi khác thuộc vùng núi phía
Tây do chịu ảnh hưởng chủ yếu của địa hình, nên trong thời gian này chiều tối và đêm có
mưa rào và dông nhiệt
Tháng 8:Là thời kỳ gió mùa mùa hạ thịnh hành, ảnh hưởng của các hệ thống thời
tiết phía Tây đã giảm đi rõ rệt, ưu thế thuộc về hệ thống thời tiết phía Nam, riêng hình thế
rãnh nội chí tuyến chiếm tần suất từ 35-40%, đem lại lượng mưa khá lớn. Bão, áp thấp
nhiệt đới đã hoạt động tăng dần, lưỡi áp cao Thái Bình Dương tăng cường và hoạt động
mạnh. Tình hình nắng nóng đã dịu bớt, mưa đã nhiều hơn.
Tháng 9-10:Tỉnh Nghệ An chịu ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới Ngoài ra, trong
các tháng này, không khí lạnh ở phía Bắc cũng đã ảnh hưởng từng đợt đến thời tiết của
tỉnh. Song cũng trong các tháng này sự kết hợp của các nhân tố địa hình đã gây ra những
đợt mưa lớn trên diện rộng sinh ra lũ lớn.
Bảng1.9. Tỷ trọng mưa tháng so với lượng mưa năm(%) [1]

Tháng
Địa phương
IV V VI VII VIII

IX X
Vinh 2.6 15.8

52.6

28.9

Đô Lương 2.6 5.3 13.2

50.0

28.9

Quỳnh Lưu 4.6 48.8

44.2


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét