Thứ Năm, 6 tháng 3, 2014

Thuận lợi và khó khăn trên con đường gia nhập WTO của Việt Nam

quyết của tổ chức này là bao trùm tối thiểu, 80% thương mại thế giới đã
không đạt được. Mặc dù vậy, một số nước phát triển vẫn quyết tâm giảm
bớt thuế quan và nhóm họp tại Geneva (Thuỵ Sĩ) vào tháng 10 năm 1947.
Tại Hội nghị này, ngày 23 - 10 - 1947, 23 nước đã ký Hiệp định chung về
thuế quan và mậu dịch (GATT) và hiệp định này có hiệu lực từ 1-1-1948.
Ngoài ra, 23 nước đã thoả thuận với nhau về hàng loạt vấn đề liên quan đến
quan thuế, đạt được 45000 sự nhượng bộ nhau về thuế gắn với 10 tỷ USD
hàng hoá. Vòng đàm phán thương mại Geneva này cũng thoả thuận rằng sự
nhượng bộ về thuế đó sẽ được bảo vệ bằng việc chấp nhận và phổ biến
rộng rãi các nguyên tắc vèe thương mại được ghi trong bản dự thảo Hiến
chương của tổ chức thương mại quốc tế (ITO). Những nhượng bộ về thuế
và các nguyên tắc thương mại quốc tế đó đã tạo ra một khung pháp luật
thương mại quốc tế đa biên được AD áp dụng rộng rãi từ tháng 1/1948.
Bản Hiến cương của ITO đã được chấp nhận vào tháng 3/1948 tạ hội nghị
Havanan một số nước không phê chuẩn nên ITO đã được thàn lập trên thực
tế. Mặc dù vậy, GATT vẫn là một công cụ pháp lý đa biên duy nhất điều
chỉnhn nền thương mại quốc tế từ năm 1948cho tới khi WTO được thành
lập.
Trong suốt thời gian tồn tại cả mình gồm, GATT vẫn có hiệu lực như
năm 1948 và cũng được củng cố, bổ xung dưới hình thức đa phương bằng
sự gia tăng số lượng thành viên, các hiệp định đa biên và các thoả thuận
nhằm giảm thuế thông qua hàng loạt vòng đàm phán thương mại. Trong số
các vòng đàm phán đó phải kể đến vóng đàm phán Anence(1949)
Torgoay(1951) Geneva(1956), Dillon(1960 - 1961), Kenedy(1964-1967),
Tokyo(1973 - 1979) và Urugoay(1986 - 1994). Phần lớn các vòng đàm
phán từ 1947 đến 1964 tập trung vào được việc gảm thuế quan, Từ vòng
đàm phán Kenedy trở đi các vấn đề đưa ra đàm phán rộng hơn, phong phú
hơn. Ở vòng Kenedy 62 nước tham gia đàm phán đã thốn nhất được hiệp
định đa biên về chống phá giá và thoả thuận gảm 50% sau 5 năm 37% thuế
với 75% khối lượng hàng trao đổi, giữ nguyên chính sách bảo hộ đối với
hàng nhạy cảm (nông sản, thuỷ sản, hàng dệt, da, ) ở vòng Tokyo, ngoài
vấn đề quan thuế, 102 nước tham gia đàm phán đã thống nhất được một
loạt các hiệp định và thoả thuận về các biện pháp phi quan thuế và các hiệp
5
định khung. Đó là giảm trung bình 34% thuế với mức không đều, các nước có
biểu thuế cao giảm nhiều hơn, hàng nhạy cảm có được giảm thuế những ở mức
thấp. Các bên thừa nhận sự phát triển của hàng rào phi thuế quan, công nhận sự
cần thiết và cho phép đãi ngộ ưu đãi dành cho các nước đang và chậm phát
triển.
Những tư tưởng lớn về vóng đàm phán Urugoay đã được định hình
ngay sau vòng Tokyo và được đưa ra tại Hội nghị Bộ trưởng các nước
thành viên GATT tháng 11/1982 tại Geneva. Tuy vậy, phải đến trước hội
nghị các Bộ trưởng tháng 9/986 tại Puntadel Este (Urugoay) chương trình
hội nghị của vòng đàm phán này mới được chấp nhận. Chương trình này
bao gồm một tổng thể lớn các vấn đề thương mại như dịch vụ, đầu tư và
quyền sử hữu trí tuệ. Tại sao lại đặt ra những vấn đề mang tính cấp thiết và
mở rộng như vậy tại vòng đàm phán này. Đó là do GATT đã được bộc lộ
những hạn chế của mình sau một thời gian dài hoạt động . Trong năm
1989, văn phòng đại diện thương mại Hoa Kỳ ước tính rằng trong số 3730
tỷ USD hoạt động thương mại trên thế giới, chỉ có 2/3 số này áp dụng các
điều lệ của GATT tức là 1/3 các hoạt động thương mại với các sản phẩm
mà các nước sử dụng ngoại lệ để không chịu giảm tàn diện trong hạn chế.
Cáchoạt động về thương mại dịch vụ, tài chính vẫn nằm trong sự bảo hộ
của nhà nước.
Lĩnh vực dịch vụ phức tạp đến mỗi người ta rất ít khi thoả thuận
dược ngay cả vệc lám sao để bắ đaàu cuộc đàm phán. Hơn nữa, quy chế
lỏng lẻo của GATT đã làm cho hệ thống mậu dịch hướng tới tự do hoá bị
suy yếu:
+ Qua các hiệp định song biên các bên dành cho nhau các quy chế ưu
đãi riêng.
+ Các biện pháp hạn chế về số lượng và hàng rào thuế quan tăng lên.
+ Các trở ngại phi thuế quan mọc lên nhanh chóng.
Vòng đàm phán Urugoay kéo dài đến 15/12/1993 để khắc phục
những hạn chế của GATT, đi đến thống nhất những vấn đề mới mang tính
thương mại toàn cầu. Ngày 15/4/1994, văn kiện cuối cùng của vòng đàm
6
phán Urugoay đã được 123 nước tham gia kí tại cuộc họp ở Marraesh
(Morocco). Tuyên bố Marrakesh ngày 15/4/1994 đã khẳng định kết quả.
Vòng đàm phán Urugoay là nhằm tăng cường nền kinh tế thế giới và thúc đẩy
thương mại, đầu tư, tăng việc làm và thu nhập trên toàn thế giới và thành lập
tổ chức thươg mại thế gới (Wold trade organision, Viết tắt của WTO )
WTO là một thiết chế pháp lý của hệ thống thương mại đa biên.
Thuật ngữ “đa biên” theo giải thích cả WTO là thuật ngữ được sử dụng để
thay cho nhữ toàn cầu hoặc chữ “thế giới” mà trước đây quen dùng.
WTO đưa ra các nghĩa vụ có tính nguyên tắc để chính phủ các nước thông
qua các cuộc thảo luận, thương lượng và phán xét có tính tập thể.
1.2-/ MỤC ĐÍCH, NGUYÊN TẮC VÀ TỔ CHỨC CỦA WTO
1.2.1- Mục đích
WTO có ba mục đích cơ bản sau.
Thứ nhất giúp cho dòng thương mại càng tự do được bao nhiêu càng
tốt bấy nhiêu. Để làm được như vậy, người ta cố gắng để mọi cái có thể rõ
ràng mà không trìu tượng, có thể có nhận biết và dự báo trước đươc. Điều
đó còn có nghĩa WTO phải phấn đấu để đảm bảo cho các cá nhân doanh
nghiệp và Chính Phủ các nước hiểu rằng các quy tắc thương mại mà không
một nước nào được đột nhiên thay đổi chính sách thương mại mà không
một cá nhân tổ chức của nước nào khác được biết trước. Nói một cách khác
là các quy tắc thương mại phải “trong sáng, rõ ràng” và có thể lường trước
được mọi thay đổi.
Thứ hai: Thực hiện chức năng của trung tâm giàn xếp, thương lượng
và thoả thuận các chính sách qui tắc thương mại đa biên.
Thứ ba: Trung tâm để giải quyết các bất đồng, các tranh chấp phát
sinh trong quá trình hoạt động thương mại quốc tế.
1.2.2. Nguyên tắc
Hệ thống các hiệp định của WTO khá lớn đồng bộ, bao quát cả một
phạm vi rộng lớn các hoạt động thương mại. Các hiệp định đó liên quan
đến nông nghiệp, hàng dệt và may mặc, ngân hàng, vô tuyến viễn thông,
7
mua sắm của Chính phủ các tiêu chuẩn công nghiệp, các qui định về vệ
sinh thực phẩm, đến sở hữu trí tuệ và các lĩnh vực khác. Tuy vậy, các
nguyên tắc cơ bản, các nguyên tắc nền tảng của WTO xuyên suốt toàn bộ
các hiệp định, các nguyên tắc đó là cơ sở của hệ thống thương mại đa biên
các nguyên tắc đó là:
a- Nguyên tắc thương mại không phân biệt đối sử.
Thương mại thế giới phải được thực hiện một cách công bằng, không
phân biệt đối xử. Các nước thành viên WTO cam kết giành cho nhau chế
độ đãi ngộ tối huệ quốc (MNF) tức là chế độ đãi ngộ ở lĩnh vực mình dành
cho hàng hóa của một nước bạn hàng này không kém phần thuận lợi hơn so
với chế độ đãi ngộ ở lĩnh vực đó giành cho bất kỳ nước thứ ba nào.
Các nước thành viên WTO cam kết giành cho nhau chế độ đãi ngộ
quốc gia (NT), tức là chế độ không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu
và hàng sản xuất trong nước, khi hàng nhập khẩu được đưa vào thị trường
trong nước. Các quốc gia có chính sách đối xử như thế nào với hàng hoá
sản xuất trong nước thì cũng phải đối xử như vậy đối với hàng hoá nhập
khẩu từ các nước thành viên WTO.
Hiện nay, chế độ tối huệ quốc và chế độ đãi ngộ quốc gia chủ yếu
giành cho hàng hoá. Tuy nhiên, các nước thành viên mong muốn và đang
xúc tiến, vận động mở rộng chế độ tối huệ quốc áp dụng đối với cả thương
nhân không riêng trong lĩnh vực hàng hoá mà còn trong lĩnh vực bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ.
b. Nguyên tắc tự do hoá mậu dịch.
Các nước thành viên WTO phải xây dựng chính sách và khung pháp
luật nhằm thực hiện, đáp ứng yêu cầu cắt giảm dần dần từng bước hàng
rào thuế quan và phi thuế quan, để đến một lúc nào đó trong tương lai sẽ
xoá bỏ hoàn toàn, mở đường cho thương mại phát triển. Tự do hoá mậu
dịch gắn với pháp luật, thể lệ và khả năng cụ thể của từng nước.
c. Nguyên tắc bảo hộ mậu dịch trong nước bằng hàng rào quan thuế.
8
Nguyên tắc này trái ngược với nguyên tắc tự do hoá mậu dịch nhưng
WTO chủ trương vẫn giành cho một số nước thành viên trong một thời
gian nhất định vẫn được áp dụng các biện pháp bảo hộ mậu dịch đối với
hàng hoá trong nước bằng hàng rào thuế quan. Có chủ trương đó là do hiện
nay và trong một thời gian nữa chưa khắc phục ngay được sự phát triển
không đồng đều giữa các quốc gia thành viên. Nguyên tắc này có nội dung
bảo hộ bằng hàng rào thuế quan, không ủng hộ bảo hộ mậu dịch bằng hàng
rào phi thuế quan hoặc các biện pháp hành chính. Mặc dù vậy, các nước áp
dụng nguyên tắc này có nghĩa vụ phải công bố mức thuế trần cam kết, để
rồi từ đó cùng với các nước WTO khác thương lượng theo chiều hướng
giảm dần mà không có tăng. Nếu các nước tăng quá mức thuế trần cam kết
thì phải bồi thường nhanh chóng, kịp thời và thoả đáng cho các nước bị
thiệt hại. Ngoài ra, mỗi nước phải cam kết mốc thời gian thực hiện lộ trình
cắt giảm dần để tiến tới mục tiêu xoá bỏ hàng rào quan thuế.
d. Nguyên tắc ổn định thương mại
WTO chủ trương thương mại quốc tế phải được tiến hành cơ sở ổn
định, rõ ràng minh bạch, không ẩn ý. Theo nguyên tắc này, các quốc gia
thành viên phải thông qua đàm phán, đưa ra các cam kết với những lộ trình
thực hiện cụ thể. Tuy thừa nhận quyền của mỗi nước thành viên được đàm
phán lại cam kết của mình WTO qui định nghĩa vụ phải đền bù các thiệt hại
có thể xảy ra cho các thành viên khác. Khi xây dựng chính sách và khung
pháp luật này phải được công bố công khai để mọi đối tượng quan tâm này
phải lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp xã hội và sau đó mới tiến hành sửa
đổi cũng như dành thời gian thích hợp để tuyên bố hiệu lực của các sửa đổi
bổ xung đó:
e. Nguyên tắc tăng cường cạnh tranh lành mạnh.
Nội dung của nguyên tắc này là sự cạnh tranh hàng hoá dịch vụ phải
trên cơ sở lành mạnh, không được dùng quyền lực nhà nước để áp đặt, bóp
méo tính lành mạnh, công bằng của cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Nguyên tắc này được nhấn mạnh trong các lĩnh vực như quyền lợi và nghĩa
vụ của doanh nghiệp nhà nước, quyền cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập
khẩu; cấp hạn ngạch.
9
g. Nguyên tắc không hạn chế số lượng hàng hoá nhập khẩu
Qui định này nhằm chống lại những hạn chế nhập khẩu đặc biệt là
với một số mặt hàng. Tuy vậy, vẫn có ngoại lệ được áp dụng cho các quốc
gia thành viên trong những trường hợp đặc biệt nghĩa là WTO vẫn cho phép
các quốc gia này được phép hạn chế hàng hoá nhập khẩu khi gặp những khó
khăn về cán cân thanh toán do trình độ phát triển thấp của nền kt trong nước
hoặc vì những lý do về môi trường, an ninh quốc gia. Việc áp dụng ngoại lệ
này chỉ có tính chất tạm thời và được áp dụng không phân biệt giữa các nước
bạn hàng khác nhau, khi có điều kiện phải xoá bỏ việc áp dụng qui định này.
h. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp, bất đồng thương mại qua thương lượng
hoà giải.
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo an toàn và công bằng cho các quan
hệ thương mại. Các tranh chấp giữa các bên trước tiên phải được giải quyết
thông qua thương lượng và hoà giải trên cơ sở thiện chí. Trong trường hợp,
đã áp dụng các biện pháp như vậy mà các bên thấy vẫn không thoả đáng thì
có thể đệ trình lên ban hội thẩm của WTO. Khi đó một hội đồng trọng tài
gồm 3 chuyên gia từ các nước không có liên quan tới các bên tranh chấp
được lập ra để xem xét các vấn đề bất đồng và đưa ra ý kiến cho ban hội
thẩm xem xét. Sau khi xem xét, ban hội thẩm ra quyết định và quyết định
và quyết định của ban hội thẩm mang tính chất ràng buộc đối với các bên.
i. Nguyên tắc về quyền được từ chối và tự vệ trong trường hợp khẩn cấp
Nguyên tắc này được ghi nhận trong GATT 1994. Theo đó, trong
một số trường hợp đặc biệt, quốc gia thành viên có thể từ chối việc thực
hiện một hoặc một số nghĩa vụ đã cam kết (điều 25 GATT 1994), nhưng
chỉ được thực hiện quyền này nếu được WTO tán thành. Về quyền tự vệ
căn cứ vào nội dung điều 1919 của GATT 1994 thì quốc gia thành viên có
thể áp dụng các biện pháp tự vệ trong trường hợp khẩn cấp, nhằm bảo hộ
sản xuất hàng hóa trong nước như tăng thuế xuất nhập khẩu vượt mức trần
đã cam kết, áp dụng hình thức hạn chế số lượng hàng nhập khẩu vượt khẩu;
trợ giá đối với hàng hoá sản xuất trong nước. Tuy vậy, biện pháp này chỉ có
tính tạm thời và phải tổ chức quốc tế và khu vực.
10
k. Nguyên tắc tôn trọng các tổ chức quốc tế và khu vực
WTO là đại diện cho thương mại toàn cầu, nhưng vẫn thừa nhận
những tổ chức kinh tế khu vực hoạt động trong lĩnh vực hoạt động trong
lĩnh vực thương mại quốc tế, miễn là những tổ chức này tuân thủ nguyên
tắc tự do hoá thương mại, thực hiện chính sách kinh tế mở, hướng ngoại,
không co cụm thực hiện việc loại bỏ dần hoặc giảm dần các hàng rào quan
thuế, phi quan thuế gây cản trở cho dòng thương mại toàn cầu. Do vậy,
nguyên tắc MFN được miễn trừ trong quan hệ giữa các nước thành viên
của tổ chức kinh tế, thương mại khu vực dưới hình thức liên minh quan
thuế hoặc khâu mậu dịch tự do.
l. Nguyên tắc giành điều kiện thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển và
chậm phát triển .
Theo nguyên tắc này, WTO thừa nhận phải giành cho các nước đang
phát triển và chậm phát triển những điều kiện thuận lợi hơn trong thương
mại quốc tế hàng hoá và dịch vụ. Đối với những nước này, các nước công
nghiệp phát triển sẽ không yêu cầu có đi có lại trong các cam kết, giảm
hoặc bỏ hàng rào quan thuế hoặc phi quan thuế để các nước đó có thể tham
gia đầy đủ thương mại quốc tế.
1.2.3 Tổ chức của WTO
WTO được tổ chức và hoạt động bởi Chính phủ của các nước thành
viên. Tất cả các quyết định quan trọng đều được xây dựng và thông qua bởi
các Bộ trưởng hoặc các quan chức các nước chủ yếu trên cơ sở nguyên tắc
nhất trí (Consensus). Đến tháng 12/1998, WTO có 132 thành viên chính thức,
hai thành viên dự bị (Kirgizistan và Latva) 34 nước quan sát viên. Để đảm bảo
nguyên tắc nhất trí, sự công bằng bình đẳng giữa các nước thành viên trong
tiến trình tự do hoá thương mại, sự hoạt động có hiệu quả vì lợi ích của các
nước thành viên WTO đã có một cơ cấu tổ chức chặt chẽ bao gồm nhiều hội
đồng, uỷ ban bao trùm nhiều lĩnh vực trong thương mại quốc tế.
- Cơ quan cao nhất WTO là hội nghị cấp bộ trưởng, bao gồm tất cả
các đại diện của các nước thành viên, đựoc tổ chức ít nhất 2 năm một lần.
11
Hội nghị quyết định tất cả các vấn đề liện quan đến các hiệp định thương
mại đa biên.
- Để giải quyết công việc hàng ngày của WTO giữa hai kỳ họp Hội
nghị cấp bộ trưởng có hôi đồng chung bao gồm tất cả các thành viên của
WTO. Hội đồng chung có nhiệm vụ báo cáo cho Hội nghị cấp bộ trưởng.
Hội nghị chung họp với tính cách là cơ quan giải quyết tranh chấp. Hội
đồng chung được chia thành 2 uỷ ban: uỷ ban giải quyết các tranh
chấp và uỷ ban đánh giá chính sách thương mại để đánh giá thường xuyên
các chính sách thương mại của từng nước thành viên Hội đồng về thương
mại hàng hoá, hội đồng về thương mại dịch vụ và hội đồng về vấn đề liên
quan đến sở hữu trí tuệ.
Ba uỷ ban khác được thành lập bởi hội nghị Bộ trưởng có nhiệm vụ
báo cáo lên Hội đồng chung. Đó là uỷ ban về thương mại và phát triển, uỷ
ban về cán cân thanh toán, uỷ ban về dự toán, tài chính và hành chính.
Mỗi hiệp định trong 4 hiệp định đa phương của WTO - hiệp định về
hàng không dân dụng, hiệp định mua sắm Chính Phủ, hiệp định sản phẩm
sữa và hiệp định thịt bò - có cơ quan quản lý riêng báo lên Hội đồng chung.
Công việc của WTO được thực hiện bởi các đại diện của các nước
thành viên, do đó phần lớn các nước đều có đại diện ngoại giao tại
Genneva, đôi khi có cả đại sứ tại WTO. Do kết quả của tiến trình khu vực
hoá kinh tế dưới nhiều hình thức, có nhiều tổ chức là thành viên hoặc môt
nhóm nước chỉ cử một đại diện duy nhất tại các cuộc họp và thương lượng
của WTO. Đơn cử, trong khi các nước thành viên điều phối, vị trí của mình
tại Brussels và Genneva thì uỷ ban Châu Âu là đại diện duy nhất cho toàn
EU tại hầu hết các cuộc họp của WTO. Ngoài ra phải kể đến Hiệp hội các
nước Đông Nam Á (ASEAN) nhóm Châu phi, vùng Caribe và Thái Bình
Dương (ACP), NAFTA(gồm Mỹ, Canada và Mexico), MERCOSUR(gồm
Brasil, Argentina, Pargoay và Urugoay ). Các đại diện này dự rất nhiều
cuộc thương lượng và gặp gỡ các quan chức lãnh đạo WTO tại trụ sở
WTO. Đôi khi các đại diện cấp chuyên viên được gửi tới từ các nước để
trình bày những đánh giá của Chính Phủ mình về những vấn đề cụ thể.
12
Về việc thông qua các quyết định của WTO vẫn tiếp tục truyền thống
lau đời của GATT là thông qua các quyết định bằng sự nhất trí hay nói
cách khác theo nguyên tắc Consensus. Theo nguyên tắc này, thì môt quyết
định sẽ được thông qua nếu không có thành viên nào phản đối chính thức.
Một khi không đạt được sự nhất trí, WTO cho phép bỏ phiếu theo nguyên
tắc đa số. Những quyết định sau sẽ được thông qua nếu có 3/4 số nước
thành viên tán thành: một sự giải thích bất kỳ của các hiệp định thương mại
đa biên; quyết định phủ quyết một sự từ bỏ nghĩa vụ của một thành viên tán
thành thì những quyết định sau sẽ được thông qua; quyết định sửa đổi các
điều khoản của các hiệp định đa biên (nhưng chỉ có tác dụng sau sẽ được
thông qua: Quyết định sửa đổi các điều khoản của các nước thành viên tán
thành; quyết định phủ quyết một sự từ bỏ nghĩa vụ của một thành viên cụ
thể trong một hiệp định da biên. Nếu 2/3 số nước thàh viên tán thành thì
những quyết định đa biên (nhưng chỉ có tác dụng đối với các nước tành
viên tán thành); quyết định kết nạp thành viên mới .
Để phục vụ các nước chức năng của WTO liên quan đến các cuộc
thương lượng và việc thi hành các hiệp định, trong tổ chức của WTO còn
Ban thư ký va fngân sách WTO. Ban thư ký của WTO đóng tại Genneva BAn
này đến cuối thàng 12/1998 có khoảng 5000 cán bộ trong biên chế đứng đầu là
Tổng giám đốc, ông Renato Ruggiero và phó Tổng giám đốc. Ban thư ký còn
giúp giải quyết các vấn đề liên quan đến đàm phán gian nhập WTO các nước
và tư vấn cho các Chính phủ xem xét tư cách các thành viên mới.
Ngân sách của WTO đến hết 31/12/1998 là 116 triệu Frans Thuỵ Sỹ
được hình thành từ sự đóng góp của các thành viên theo tỷ lệ trong tổng số
hoạt động thương mại của thành viên đó. Một phần ngân sách của WTO
dược dùng để chi cho hoạt động của trung tâm thương mại quốc tế.
1.1.3 Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO vô cùng quan trọng trong việc
bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các nước thành viên, từ đó thực hiện tự do
hoá thương mại một cách bình đẳng, công bằng giữa các quốc gia. Phương
pháp truyền thống từ GATT 1947 của WTO quy định khá cụ thể về cơ chế
giải quyết tranh chấp, trong đó có khẳng định tính cụ thể về cơ chế giải
13
quyết tranh chấp, trong đó khẳng định tính ưut iên phương pháp thương
lượng, hoà giải. Quy tắc va thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tanh chấp
(sau đây gọi là thoả thuận DSU) về phạm vi áp dụng, thoả thuận DSU dược
áp dụng đối với các tranh chấp được đưa ra giải quyết theo nguyên tắc
tham vấn dược yêu cầu tham vấn và chỉ được đặt ra khi các hiệp định của
WTO có hiệu lực. Về biện pháp, các bên tranh chấp bất cứ lúc nào cũng có
thể yêu cầu giải quyết tranh chấp bất cứ lúc nào cũng có thể yêu cầu giải
quyết tranh chấp bằng biện pháp môi giới, trung gian, hoà giải. Trong
trường hợp, các biện pháp này không đưa lại kết quả mong muốn, các bên
có thể yêu cầu thành lập ban hội thẩm. Bên cạnh các cơ quan này, WTO
còn có cơ quan phúc thẩm có thẩm quyền xem xét lại các quyết định của
ban hội thẩm và cơ quan giải quyết tranh chấp có chức năng tác nghiệp đối
với hệ thống giải quyết tranh chấp hợp nhất. Về việc thi hành các quyết
định hoặc khuyến nghị DSB thì theo quyết định tại điều 21 thoả thuận
DSU, các bên phải thi hành ngay lập tức nhằm bảo đảm hiệu quả của việc
giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp vẫn qui định
khoảng thời gian thi hành hợp lý tuỳ theo yêu cầu của DSU, đó là thời gan
thi hành không quá 12 tháng nếu quyết định đó không có việc xem xét phúc
thẩm, không quá 15 tháng nếu xem xét phúc thẩm. Một vấn đề đặt ra là khi
thực hiện các quyết định cần tính đến quyền lợi của các nước đang phát
triển. Tính bắt buộc thi hành các quyết định thể hiện ở cơ sở vụ tranh chấp
phải được coi như chưa kết thúc nếu các vấn đề chưa được giải quyết triệt
để.
Có thể nói cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO khá hiệu quả và năng
động nhưng không kém phần cứng rắn, kiên quyết trong mọi trường hợp.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét