Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014

Tác động của chính sách tỷ giá hối đoái đến lạm phát ở việt nam

* Tỉ giá đóng cửa: Là tỉ giá áp dụng cho mua bán món ngoại tệ cuối
cùng trong ngày làm việc tại các trung tâm hối đoái.
1.5.3 Căn cứ vào phương thức mua bán, giao nhận ngoại tệ
* Tỉ giá giao nhận ngay: Là tỉ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận
chúng sẽ thực hiện chậm nhất sau 2 ngày làm việc.
* Tỉ giá giao nhận có kì hạn: Là tỉ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao
nhận chúng được thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định.
1.5.4 Căn cứ vào chế độ quản lí ngoại hối
* Tỉ giá hối đoái chính thức: Là tỉ giá do Nhà nước công bố thường là
Ngân hàng Trung ương.
* Tỉ giá tự do: Là tỉ giá được hình thành tự phát và diễn biến theo quan
hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường. Tỷ giá tự do hay còn gọi là tỷ giá
trên thị trường chợ đen.
2. Chính sách tỉ giá hối đoái
2.1. Định nghĩa:
Là chính sách mà Ngân hàng Trung ương can thiệp vào thị trường ngoại
hối bằng cách thay đổi lãi suất.
+ Khi tỉ giá lên cao, Ngân hàng Trung ương tăng cường bán ngoại hối ra
thị trường để kéo tỉ giá ngoại hối tụt xuống.
→ Ngân hàng Trung ương cần phải có dự trữ ngoại hối lớn.
+ Khi tỉ giá xuống, Ngân hàng Trung ương tiến hành thu mua ngoại hối
trên thị trường để đẩy tỉ giá ngoại hối tăng lên.
2.2. Phân loại chính sách tỷ giá.
* Chế độ tỉ giá cố định: Là chế độ tỉ giá mà Ngân hàng Trung ương buộc
phải can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì tỉ giá biến động xung
5
quanh một mức tỉ giá cố định (gọi là tỉ giá trung tâm) trong một biên độ hẹp
đã được định trước.
→ Chế độ tỷ giá này giảm bớt rủi ro trong việc chuyển đổi từ đồng tiền
này sang đồng tiền khác.
* Chế độ tỷ giá thả nổi an toàn: Là chế độ tỉ giá được xác định hoàn toàn
tự do theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có sự can
thiệp của Ngân hàng Trung ương.
→ Chế độ tỷ giá này giúp cho chính sách tiền tệ quốc gia được độc lập.
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: Là chế độ tỉ giá mà Ngân hàng Trung
ương tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng đến tỉ
giá nhưng không cam kết duy trì một tỉ giá cố định hay biên độ dao động
nào xung quanh tỷ giá trung tâm.
II.Tác động của chính sách TGHĐ đến lạm phát ở Việt
Nam giai đoạn từ đầu năm 2007 đến quý 2 năm 2008
1.Tình hình lạm phát ở Việt Nam
Đối với thế giới nói chung Việt Nam nói riêng thì lạm phát luôn là một
vấn đề nóng hổi.
Số liệu do tổng cục thống kê công bố cho hay,tính riêng trong 6 tháng
đầu nâm 2008 chỉ số CPI của cả nước đã tăng 14,44%, cao nhất so với mức
tăng cả năm trong 15 năm kể từ 1993 đến nay; trong đó tháng 1-2008 tăng
2,38%; thág 2 tăng 3,56%; tháng 3 tăng 2,99%; tháng 4 tăng 2,2%; tháng 5
tăng 3,91%; tháng 6 tăng 2,14%. Như vậy, nếu so sánh với 6 tháng cùng kì
năm 2007 thì chỉ số CPI tăng tới 20,34% giảm nhẹ so với mức 21,52% của 5
tháng đầu năm 2008.
6

Thông qua biểu đồ chỉ số giá cả trong 9 tháng đầu năm 2008 ta có thể
thấy được rằng chỉ số giá cả không ổn định. Đỉnh điểm lên tới 3.91%. tuy
nhiên có những dấu hiệu tích cực về c uối năm(biểu hiện là chỉ số giá cả
giảm xuống còn 0.18%)
Phân tích cụ thể sự tăng giá của các nhóm mặt hàng có thể thấy, trong 9
tháng đầu năm 2008 tăng giá cao nhất là nhóm hàng lương thực, tới 59,44%;
tiếp theo là nhóm hàng ăn uống ngoài gia đình, tăng 22,4%; thứ 3 là nhóm
hàng thực phẩm, tăng 21,83%; thứ tư là nhóm hàng thuê nhà, chất đốt, điện,
nước, vật liệu xây dựng tăng 14,34%; thứ 5 là nhóm phương tiện đi lại, bưu
điện tăng 10,58%
7
Trong 9 tháng đầu năm 2008 chúng ta có thể thấy đường chỉ số giá
tiêu dùng của mặt hang lương thực cao hơn nhiều so với đường chỉ số giá
tiêu dùng của thực phẩm vàng cũng như đôla và chỉ số chung. Điều này
cũng nói lên rằng sự tăng giá của mặt hàng lương thực chính là một trong
những nguyên nhân gây ra lạm phát ở việt nam trong thời gian qua.
Cho đến nay việc đánh giá, nhìn nhận các nguyên nhân lạm phát hiện
nay ở việt nam đã tương đối rõ ràng, tức là không nằm ngoài những tác động
chung của diễn biến kinh tế kinh tế thế giới và bao gồm tổng hợp của cả 3
nguyên nhân lạm phát đó là tiền tệ,cầu kéo và chi phí đẩy.
Nghiên cứu chỉ số lạm phát ở việt nam từ 1998-2008 chúng ta có thể
thấy được sự tăng giảm không ổn định của chỉ số lạm phát. Từ 2006-2008
lạm phát có xu hướng tăng mạnh, và cao nhất trong mười năm trỏ lại đây.
Đây là dấu hiệu xấu cho sự kiểm soát tỉ lệ lạm phát ở việt nam.
8
2. Tác động của chính sách TGHĐ đến lạm phát ở Việt Nam
2.1.Chính sách TGHĐ ở Việt Nam trong thời gian qua
Định hướng mô hình phát triển kinh tế ở Việt Nam là xây dựng một nền
kinh tế thị trường mở, hướng về xuất khẩu. Trong thời gian qua chính sách
tài chính tiền tệ đã có những đổi mới quan trọng để tạo ra những yếu tố tiền
đề tác động hỗ trợ và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm ổn định và
phát triển kinh tế trong nước, cân bằng quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong
chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá hối đoái đóng một vai trò hết sức to lớn.
Có tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán quốc tế và tiềm lực tài chính
trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Mục tiêu của Việt Nam trong những năm
qua luôn là ưu tiên xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại quốc tế, phục vụ
tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng của chúng ta lâu nay chủ yếu dựa vào xuất
khẩu, với giá trị hiện nay đã xấp xỉ 60% GDP. Tất cả chính sách đều ưu tiên
cho xuất khẩu từ xây dựng cơ sở hạ tầng đến chính sách tỷ giá.
Hiện nay để thực hiện các mục tiêu kinh tế và quản lý thị trường ngoại
hối hiệu quả, Việt Nam đang duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi
có quản lý, với biên độ dao động tỷ giá không đáng kể.
Biên độ dao động tỷ giá trong thời gian qua:
Năm Mở rộng biên độ Biên độ mới
31/12/2006 0,25% ±0,50%
24/12/2007 0,25% ±0,75%
07/03/2008 0,25% ±1,00%
9
Việc áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết sẽ có các thuận lợi sau:
Thứ nhất, nó phản ánh kịp thời mọi quan hệ cung cầu trên thị trường, tránh
tình trạng tỷ giá xa rời thực tế của nền kinh tế. Hai là, sự can thiệp kịp thời
của nhà nước đến tỷ giá sẽ tránh được những biến động không mong muốn
có ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình kinh tế, xã hội. Ba là, giúp cho các
doanh nghiệp thương mại có cơ sở để quyết định chính sách kinh doanh của
mình, không phải đối mặt với những biến động bất thường của một cơ chế tỷ
giá linh hoạt hoàn toàn.
Và để đạt được mục tiêu kích thích xuất khẩu, thời gian qua chúng ta đã
luôn duy trì chính sách kìm giá VND, neo giá VND với một ngoại tệ mạnh
khác là Đô la Mỹ. Nhờ đó, xuất khẩu được kích thích mạnh mẽ và đã đạt
được những bước tăng trưởng ngoạn mục.
Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu đạt 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm
2006, vượt 3,1% so với kế hoạch chính phủ đặt ra là 17,4%. Trong đó kim
ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 56,9%, đạt 27,3 tỷ
USD. Về giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2007 tăng 8,2 tỷ USD, các nhóm
hàng then chốt đều có sự gia tăng đáng kể.
Trong tháng 5/2008, kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 5,15 tỷ USD,
tăng 3% so với tháng 4/2008. Tính chung 5 tháng đầu năm, kim ngạch xuất
khẩu đã đạt 23,4 tỷ USD, tăng 27,2% so với cùng kỳ 2007 và đạt 39,5% kế
hoạch năm 2008.
Tuy rằng việc duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái như vậy không phải
là yếu tố duy nhất quyết định đến kim ngạch xuất khẩu của chúng ta. Song
có thể thấy được rằng việc giữ giá đồng Việt Nam đã có tác động vô cùng
mạnh mẽ. Tỷ giá hối đoái là một công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu để điều tiết
cán cân thương mại quốc tế. Tỷ giá hối đoái có tác động rất lớn đến xuất
nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập khẩu tư bản (vốn), giá cả hàng hoá trong
10
nước do đó nó cũng có những tác động không nhỏ đến nền kinh tế quốc dân.
Tỷ giá VND so với USD tăng sẽ giúp cho giá cả của hàng hoá và dịch vụ
xuất khẩu tính bằng tiền nước ngoài giảm đi tương đối trên thị trường nước
ngoài, từ đó góp phần giúp cho hàng hoá xuất khẩu của chúng ta có sức cạnh
tranh tốt hơn trên thị trường thế giới, kim ngạch xuất khẩu luôn duy trì tốc
độ tăng trưởng cao. Hơn nữa tỷ giá hối đoái tăng khiến cho giá cả hàng nhập
khẩu sẽ đắt lên tương đối trên thị trường nội địa với điều kiện giá nhập khẩu
ổn định, vì thế duy trì TGHĐ cao sẽ hạn chế nhập khẩu, tạo điều kiện cho
việc mở rộng thị phần của hàng hoá nội địa ở thị trường trong nước. Những
năm qua, chính phủ ta luôn xác định rõ ràng xuất khẩu là ưu tiên hàng đầu
giúp tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Vì vậy, lựa chọn một chính
sách tỷ giá hối đoái như vậy trong thời gian qua là hợp lý.
Đồng Việt Nam đã được neo vào USD từ lâu. Trong biểu đồ chúng ta
lấy tỷ giá đồng nội tệ/USD của các nước Việt Nam, Philippines, Trung
Quốc, Thái Lan và Malaysia ở mỗi thời điểm chia cho tỷ giá tương ứng ở
tháng 1 năm 2005. Biến động tỷ giá như vậy trong khoảng thời gian từ năm
2005 đến 4/2008 được thể hiện như sau:
Biến động Tỷ giá đồng nội tệ/USD từ 1/2005 đến 4/2008
11
Từ biểu đồ chúng ta có thể thấy được VND đã được neo giá vào USD
trong khoảng thời gian khá dài. VND luôn được định giá yếu so với USD.
Song cũng trong thời gian này, USD lại mất giá đáng kể so với các đồng tiền
khác, ngược lại đồng VN vẫn bị neo vào đồng USD (thậm chí còn mất giá so
với USD).
2.2.Những tác động của chính sách TGHĐ đến lạm phát
Việt Nam chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới
WTO. Tốc độ tăng trưởng GDP đứng thứ hai châu lục. Kim ngạch xuất khẩu
tăng đều từ 20 đến 25%. Dòng vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối liên tục
tăng lên đạt các kỷ lục mới. Chỉ số chứng khoán VN-Index tăng lên gấp 4
lần. Tuy nhiên, đến giữa năm 2007, thông kê chỉ số giá tiêu dùng đã lên
tiếng báo hiệu một điều không tốt lành cho nền kinh tế: chỉ số CPI đã tăng
quá cao. Cuối năm 2007, con số lạm phát được công bố là 12,6% - cao nhất
trong vòng 12 năm qua. Đầu năm 2008, chỉ số này tiếp tục tăng mạnh, riêng
3 tháng đầu năm chỉ số CPI đã tăng lên đến 9,19%, đã vượt mức chỉ tiêu lạm
phát trong năm 2008 (8,5%) do Chính phủ đề ra. Vậy đâu là nguyên nhân
của vấn đề này. Vì sao các nước trong khu vực cùng trong bối cảnh kinh tế
thê giới, cùng chịu những tác động bên ngoài như chúng ta nhưng chỉ số lạm
phát của chúng ta cao hơn nhiều các nước đó, ngay cả với Trung Quốc có
tốc độ phát triển kinh tế nhanh hơn nhiều so với Việt Nam.
12
Chỉ số lạm phát ở Việt Nam, Phillipines, Trung Quốc, Thailand và Malaysia
Câu trả lời chính là chính sách tỷ giá hối đoái trong thời gian qua. Theo
các chuyên gia kinh tế, lý do quan trọng khiến lạm phát ở Việt Nam cao như
vậy nằm ở chính sách TGHĐ. Như vậy chính sách TGHĐ của chúng ta đã
tồn tại nhiều khiếm khuyết. Chính sách TGHĐ thời gian qua một mặt kích
thích mạnh mẽ xuất khẩu, song mặt khác đã có những tác động tiêu cực tới
lạm phát. Chính sách tỷ giá hối đoái đôi khi không phù hợp so với biến động
của kinh tế thế giới dẫn đến kết quả là: lượng cung tiền tăng đột biến; chi phí
cho sản xuất trong nước tăng cao. Đây là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn tới
lạm phát cao tại Việt Nam.
2.2.1.Neo tỷ giá cứng nhắc với đô la Mỹ dẫn đến cung tiền tăng mạnh
Kinh tế Việt Nam trẻ, được đánh giá có nhiều tiềm năng và triển vọng
về cơ hội đầu tư do vậy sau khi gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam tăng đột biến (chỉ tính riêng năm 2007 đã tới 20 tỉ USD). Về
nguyên tắc khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tăng, Việt Nam
Đồng (VNĐ) sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng (quan hệ cung cầu). Tuy
nhiên, với chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu, NHNN Việt Nam phát
hành VNĐ mua lại lượng ngoại tệ này với mục đích kìm tỉ giá của VNĐ với
đồng Đô la Mỹ (USD) thấp hơn điểm cân bằng nhằm nâng cao tính cạnh
tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VNĐ yếu có thể coi là một hình
thức trợ giá cho hàng xuất khẩu và phát huy ở trong những điều kiện kinh tế
thế giới nhất định. Tuy nhiên, mặt trái thứ nhất của chính sách này là do phải
tung VNĐ ra mua lại lượng ngoại tệ chảy vào, lượng cung tiền của Việt
Nam từ năm 2005 đến nay tăng tổng cộng 135%. Đây là mức tăng rất lớn
mặc dù NHNN đã có nỗ lực hút lại một phần cung tiền. Đây là nguyên nhân
cơ bản đầu tiên dẫn đến lạm phát.
13
Mức tăng cung tiền ở Việt Nam lớn hơn rất nhiều so với các nước khác trong
khu vực
2.2.2.Neo tỷ giá với đôla Mỹ mất giá mạnh trên toàn cầu khiến chi phí
sản xuất trong nước tăng (Nhập khẩu lạm phát)
Cũng trong vài năm gần đây, do thâm hụt thương mại khổng lồ đồng USD
của Mỹ đã mất giá so với những đồng ngoại tệ mạnh khác. Cộng thêm vào
đó, cuộc khủng hoảng tín dụng nhà đất tại Mỹ vào cuối năm 2007 khiến nền
kinh tế này bước vào giai đoạn suy thoái, đẩy đồng USD mất giá nhiều hơn
nữa, giá xăng dầu tính theo đồng USD tăng mạnh. Hình sau cho thấy chỉ tính
từ năm 2006 đến nay đồng USD đã mất giá trung bình khoang 15% so với
các ngoại tệ mạnh khác như Euro, đồng Yên, Bảng Anh và đồng Nhân dân
tệ của Trung quốc.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét