Thứ Năm, 13 tháng 3, 2014

một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đông hà nội


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đông hà nội": http://123doc.vn/document/1043490-mot-so-giai-phap-nang-cao-chat-luong-tin-dung-doi-voi-cac-doanh-nghiep-vua-va-nho-tai-chi-nhanh-ngan-hang-nong-nghiep-va-phat-trien-nong-thon-dong-ha-.htm


lý sản xuất kinh doanh còn nhiều hạn chế, khó khăn thâm nhập vào thị trờng
thế giới và khu vực.
1.1.1.2 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Xét về mặt lịch sử, sự ra đời và phát triển của các nớc t bản có nền đại công
nghiệp phát triển gắn với những công ty, tập đoàn kinh tế lớn nh ngày nay thì
sự khởi đầu của họ cũng là những xí nghiệp, công trờng thủ công sản xuất
nhỏ. Trong quá trình phát triển, sự tích tụ và tập trung vốn cùng với quá trình
cạnh tranh gay gắt giữa những xí nghiệp trong nớcvà ngoài nớc đã tạo ra
những tập đoàn kinh tế lớn nh ngày nay. Tuy vậy, ngay cả ở các nớc t bản phát
triển, các DNVVN vẫn giữ một vị trí quan trọng và ngày càng đợc khẳng định.
Bởi vì nhiều lĩnh vực kinh tế chỉ có thể sản xuất kinh doanh có hiệu quả bởi
các DNVVN. Sau thời kỳ suy thoái kinh tế những năm đầu thập niên 30, ngời
ta luận ra rằng khu vực DNVVN là nhân tố cực kỳ quan trọng thúc đẩy và mở
rộng cạnh tranh, bảo đảm và ổn định kinh tế, phòng chống nguy cơ khủng
hoảng. Thật vậy, khu vực DNVVN là xơng sống trong nền kinh tế của nhiều
quốc gia hiện tại và cả tơng lai. Đặc biệt khi cuộc Cách mạng khoa học và
công nghệ ngày càng phát triểnđã tạo điều kiện cho các DNVVN nhiều cơ hội
tập trung kỹ thuật, có khả năng sản xuất các sản phẩm không thua kém các
doanh nghiệp lớn. Mặt khác xét trên phạm vi toàn cầu hiện nay về tính chất
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang chuyển từ cạnh tranh giá cả sang cạnh
tranh về chất lợng và công nghệ. Trong điều kiện này, lợi thế của các doanh
nghiệp có quy mô lớn sẽ bị giảm sút. Sự phát triển của chuyên môn hoá và
hợp tác hoá đã không cho phép một doanh nghiệp tự khép kín chu trình sản
xuất kinh doanh một cách có hiệu quả. Mà với mô hình sản xuất kiểu vệ tinh,
trong đó các DNVVN là vệ tinh cảu doanh nghiệp lớn tỏ ra rất thích hợp.
Nh vậy, một nền kinh tế hiện đại thì DNVVN ngày càng không thể tan biến
trong các tập đoàn kinh tế lớn mà khả năng hợp tác để mở rộng lại ngày càng
tăng.
Đối với Việt Nam, một nớc đang phát triển đang tiến tới một nền kinh tế thị
trờng định hớng XHCN thì DNVVN càng có ý nghĩa quan trọng. Thể hiện cụ
thể trên các mặt sau :
- DNVVN chiếm tỷ trọng cao về số lợng, thu hút nhiều lao động và đóng
góp phần lớn thu nhập quốc dân cho đất nớc. Theo số liệu thống kê của các
nhà kinh tế, hiện nay DNVVN của nớc ta chiếm trên 80% tổng số doanh
nghiệp, tạo công ăn việc làm cho khoảng 95% lao động xã hội. Nh vậy, phát
triển DNVVN là chủ trơng đúng đắn của Đảng, nó đợc gắn liền với đờng lối
phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng theo định hớng kinh tế thị trờng
nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập, góp phần vào ổn định tình hình kinh
tế xã hội.
- Các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong lu thông hàng hoá và cung cấp
dịch vụ, có vai trò bổ sung cho các doanh nghiệp lớn, là xí nghiệp gia công vệ
tinh cho các doanh nghiệp lớn cùng hệ thống và là màng lới tiêu thụ hàng hoá
cho các doanh nghiệp lớn. Hiện DNVVN chiếm khoảng 31% tổng sản lợng
công nghiệp hàng năm, 78% doanh số bán lẻ trong thơng nghiệp, 64% khối l-
ợng vận chuyển hành khách và hàng hoá.
- Các DNVVN đáp ứng tích cực, kịp thời nhu cầu tiên dùng ngày càng
phong phú và đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm đợc, chế biến
hàng hoá xuất khẩu và tăng kim ngạch xuất khẩu. Hệ thống siêu thị cũng
không thể thay thế đợc các của hàng bán lẻ, những nhà máy quy mô lớn hiện
đại không sản xuất đợc những sản phẩm đơn chiếc.Bằng sự đa dạng ngành
nghề, tính nhạy cảm thị trờng các DNVVN sẽ có nhiều thuận lợi trong sản
xuất và cung cấp dịch vụ, đáp ứng mọi sản phẩm và nhu cầu tiêu dùng cầu xã
hội. Với lợi thế so sánh về các nguyên liệu nông lâm thuỷ hải sản để sản hàng
hoá xuất khẩu, lợi thế về ngành nghề thủ công truyền thống đã tạo ra khả năng
vô cùng to lớn cho khu vực DNVVN tham gia sản xuất, gia công chế biến, đại
lý khai thác cho xuất khẩu. Do DN lớn hạn chế về khu vực địa lý, phơng pháp
tổ chức sản xuất và nếu muốn kinh doanh thờng phải sử dụng các DNVVN
làm vệ tinh thu mua nguyên liệu, chế biến, đóng gói
- Các DNVVN có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phơng,
khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng sản xuất. Phát triển DNVVN sẽ
giúp các địa phơng khai thác thế mạnh về đất đai, tài nguyên, lao động trong
mọi lĩnh vực phục vụ phát triển kinh tế địa phơng. Từng địa phơng cũng bị
giới hạn bởi ngân sách, khả năng tích tụ và tập trung vốn của DN t nhân
không nhiều nên việc phát triển doanh nghiệp lớn là hạn chế. Chính vì vậy,
Đảng và Chính phủ ta đa ra các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại ở
vùng núi phía Bắc, vùng cao nguyên Nam trung bộ và phát huy các làng nghề
truyền thống.
Nh vậy, có thể khẳng định vị trí và vai trò của các DNVVN, đồng thời việc
chú trọng phát triển các DNVVN là một trong những hớng chiến lợc quan
trọng quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc.
Đánh giá vai trò DNVVN ở Việt Nam
TT Vai trò Tỷ lệ ( % )
1
Góp phần tăng trởng kinh tế
51,7
2
Tạo việc làm, tăng thu nhập
88,5
3
Tăng tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế
83,2
4
Tham gia đào tạo đội ngũ các nhà kinh doanh Việt Nam
63,2
Nguồn: Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam
1.1.2 Một số vấn đề cơ bản về tín dụng Ngân hàng
1.1.2.1 Sự hình thành Ngân hàng và khái niệm tín dụng Ngân hàng
Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển
của nền sản xuất hàng hoá. Nền kinh tế và Ngân hàng có mối quan hệ qua lại
hai chiều, Ngân hàng là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và sự phát triển
kinh tế là điều kiện cho hoạt động của Ngân hàng. Nghề ngân hàng bắt đầu
với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng Ngân hàng thợ vàng.
Họ tiến hành mua bán, trao đổi ngoại tệ bản tệ và thu lợi nhuận từ chênh lệch
giá. Những nhà buôn tiền này cất trữ hộ nhiều ngời khác là điều kiện thực hiện
thanh toán hộ cho các thơng gia, lãnh chúa, địa chủ Từ đây hình thức tín
dụng đầu tiên đã ra đời, đó là tín dụng nặng lãi với lãi suất cao và phục vụ
mục đích chủ yếu là tiêu dùng của những ngời giàu. Do tính chất vô danh của
tiền, nhà buôn tiền có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách để
cho vay. Vì vậy đã làm thay đổi căn bản hoạt động của kẻ cho vay nặng lãi,
điều kiện để mở rộng cho vay và hạ thấp lãi suất. Cùng với sự phân biệt giữa
sản xuất và tiêu thụ, tính thời vụ trong sản xuất, mua bán sản phẩm thì tín
dụng thơng mại đã xuất hiện. Đó là quan hệ tín dụng bằng hàng hoá giữa
những doanh nghiệp hoạt động trực tiếp trong lĩnh vực sản xuất lu thông hàng
hoá, đợc hình thành trên cơ sở mua bán chịu hàng hoá. Nhờ có tín dụng thơng
mại mà các doanh nghiệp không chỉ đợc đáp ứng nhu cầu vốn mà còn tiêu thụ
đợc hàng hoá của mình. Song tín dụng thơng mại chỉ có thể thực hiện giữa
những ngời có quan hệ giao dịch thờng xuyên trong phạm vi quan hệ mua bán
chịu hàng hoá đã thực hiện, vốn cho vay là một bộ phận nằm trong chu kỳ
của ngời cho vay nên không thể kéo dài thời hạn. Nghĩa là tín dụng thơng mại
bị hạn chế về phạm vi qui mô, về thời hạn và chiều hớng của quan hệ tín dụng.
Từ đó, tín dụng ngân hàng đã ra đời nhằm khắc phục mặt hạn chế trên của tín
dụng thơng mại. Tín dụng Ngân hàng là loại hình dịch vụ chủ yếu của Ngân
hàng tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ
chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Tín dụng Ngân hàng là hình thức phát
triển cao của tín dụng nói chung, về bản chất vẫn là quá trình chuyển dịch vốn
dới hình thái tiền tệ hay hiện vật của một tổ chức hay cá nhân này cho một tổ
chức hay cá nhân khác sử dụng trong một thời gian nhất định trên nguyên tắc
hoàn trả. Nghĩa là ngời cho vay chỉ nhợng quyền sử dụng cho ngời vay sau
một thời gian nhất định đã thỏa thuận nào đó, ngời đi vay phải hoàn trả lại cho
ngời cho vay cả vốn lẫn lãi trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng có lợi cho cả hai
bên. Song điểm khác biệt của tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng ở đây là
bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên kinh doanh trong
lĩnh vực tiền tệ, đóng cả vai trò đi vay và cho vay với một bên là tất cả các
thành phần kinh tế trong xã hội. Tín dụng Ngân hàng đợc hình thành trên cơ
sở các nghiệp vụ tín dụng. Tín dụng ngân hàng ngày càng phát triển mạnh,
phạm vi hoạt động ngày càng rộng và trở thành hình thức tín dụng chủ yếu
trong nền kinh tế thay thế tín dụng thơng mại. Nó luôn phát huy đợc vai trò
đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì và mở rộng quá trình tái sản xuất đồng thời
đợc sử dụng nh một công cụ tài trợ cho những ngành kinh tế khác phát triển
theo yêu cầu phát triển kinh tế của Nhà nớc.
1.1.2.2 Sơ lợc về tín dụng Ngân hàng
Nh đã trình bày ở phần trên, tín dụng là quan hệ vay mợn, gồm cả cho vay và
đi vay. Nhng đã nói đến tín dụng Ngân hàng thì đó là hoạt động tài trợ của
Ngân hàng cho khách hàng. Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất và cũng
mang rủi ro cao nhất cho NHTM. Khoản mục tín dụng thờng chiếm đến 70%
tổng tài sản của NHTM, tín dụng vì vậy ảnh hởng mạnh tới mọi mặt trong
hoạt động của Ngân hàng. Sau đây chúng ta chỉ xem xét những nét chính, cơ
bản nhất về tín dụng ngân hàng.
Các nguyên tắc tín dụng Ngân hàng : Đó là khách hàng phải cam kết hoàn
trả gốc và lãi với thời gian xác định; khách hàng cam kết sử dụng khoản đ-
ợc Ngân hàng tài trợ theo đúng mục đích đã thoả thuận, đúng quy định của
pháp luật; Ngân hàng tài trợ dựa trên dự án có hiệu quả, nghĩa là có khả
năng thu hồi vốn vay và trả đợc lãi Ngân hàng. Ngân hàng Nhà nớc và các
NHTM tuân thủ các nguyên tắc tín dụng này nhằm đảm bảo tính an toàn
và khả năng sinh lời.
Phân tích tín dụng : Phân tích khách hàng trong quan hệ tín dụng với Ngân
hàng chính là phân tích tín dụng, nhằm xác định khả năng và ý muốn của
khách hàng trong việc hoàn trả gốc lãi đúng hạn, xác địng rủi ro và các
biện pháp hạn chế rủi ro. Để chuẩn hoá các bớc cần thiết khi tài trợ cho
khách hàng, Ngân hàng xây dựng và thực hiện theo qui trình phân tích tín
dụng. Bao gồm phân tích trớc khi cấp tín dụng nhằm xác định đợc năng lực
sử dụng vốn vay và uy tín, đánh giá tài sản của khách hàng, khả năng tạo
lợi nhuận ; xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng; giải ngân và kiểm soát
khi cấp tín dụng; thu nợ hoặc đa ra các phán quyết tín dụng mới.
Lãi suất tín dụng : Để đa ra mức lãi suất cho khoản tín dụng, Ngân hàng
phải tính đến rủi ro, lãi suất hoà vốn, lãi suất cạnh tranh trên thị trờng. Vì
vậy, căn cứ vào kì hạn, loại tiền, khách hàng mà mức lãi suất tín dụng sẽ
khác nhau. Lãi suất cố định trong suốt kì hạn tín dụng là lãi suất cố định,
lãi suất thả nổi là biến đổi theo thay đổi của lãi suất tham khảo hay chỉ số
cơ sở. Ngoài ra, còn có lãi suất hỗn hợp đó là sự kết hợp giữa cố định và có
điều chỉnh sau một thời gian nhất định. Lãi suất do NHTM xây dựng là lãi
suất cơ bản. Các bộ phận làm tăng lãi suất cơ bản là lãi suất huy động và
chi trả bình quân ; Các khoản chi khác; Rủi ro tín dụng ; Thuế ; Lợi nhuận.
Các khoản thu lãi từ tiền gửi và chứng khoán, các khoản thu khác làm giảm
lãi suất cơ bản.
Các nghiệp vụ tín dụng
Phân loại theo hình thức cấp tín dụng :
Chiết khấu thơng phiếu : đây là nghiệp vụ đơn giản, khách hàng gửi thơng
phiếu tới Ngân hàng xin chiết khấu, Ngân hàng kiểm tra chất lợng
của thơng phiếu và tiến hành chiết khấu nghĩa là đa tiền cho khách hàng và
nẵm giữ thơng phiếu. Số tiền này căn cứ vào lãi suất, thời hạn và lệ phí chiết
khấu. Các NHTM thờng tái chiết khấu thơng phiếu tại NHNN để đáp ứng
nhu cầu thanh khoản.
Cho vay : bao gồm thấu chi, cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho
vay luân chuyển , cho vay trả góp. Có thể hiểu chung nhất cho vay là việc
Ngân hàng đa tiền cho khách hàng với cam kết sẽ trả nợ gốc và lãi trong một
thời gian xác định. Thấu chi là nghiệp vụ mà Ngân hàng cho phép ngời vay
chi vợt số d trong tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và
trong khoảng thời gian xác định. Cho vay trực tiếp từng lần thờng áp dụng
với khách hàng có nhu cầu thời vụ, mội lần vay khách hàng phải làm đơn và
trình phơng án dùng vốn vay. Ngân hàng xem xét và đa ra qui mô cho vay,
thời hạn trả nợ, lãi suất Cho vay theo hạn mức là Ngân hàng thoả thuận cấp
cho khách hàng hạn mức tín dụng _ số d tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức
đợc xác định dựa vào kế hoạch SXKD của khách hàng, nhu cầu vốn và nhu
cầu vay của họ. Cho vay luân chuyển là dựa vào sự luânc huyển cảu hàng
hoá, DN khi hông đủ vốn mua hàng, Ngân hàng sẽ cho vay và thu nợ khi DN
bán đợc hàng. Cho vay trả góp thờng áp dụng với món vay trung dài hạn,
khách hàng đợc phép trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng.
Cho thuê: là việc Ngân hàng mua tài sản để cho khách hàng thuê theo thỏa
thuận cụ thể.
Bảo lãnh: là việc Ngân hàng cam kết dới hình thức th bảo lãnh sẽ thực hiện
các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng khi khách hàng khhông thực hiện đúng
nh cam kết. Ngân hàng không bỏ tiền ra mà cho khách hàng dùng uy tín của
mình.
Phân loại theo tài sản đảm bảo: Về nguyên tắc mọi khoản tín dụng đều có
đảm bảo nhng với các khách hàng uy tín, tài chính mạnh hay các món vay
theo chỉ thị của Chính phủ thì không cần tài sản đảm bảo. Có 2 nghiệp vụ
đảm bảo là cầm cố và thế chấp. Cầm cố là hình thức mà ngời vay phải
chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho Ngân hàng trong thời
gian xác định, thờng là bằng thời gian nhận tài trợ. Thế chấp là hình thức
mà ngời vay phỉa chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở hựu hay quyền
sử dụnh tài sản đảm bảo sang Ngân hàng năm giữu trong thời gian cam kết.
Phân loại theo thời gian: do thời gian liên quan đến tính sinh lời và an
toàn của tín dụng nên phân chia theo thời gian là cần thiết. Tín dụng ngắn
hạn là từ 12 tháng trở xuống và thờng tài trợ cho tài sản lu động. Tín dụng
trung hạn là từ 1 đến 5 năm, thờng tài trợ cho tài sản cố định. Tín dụng dài
hạn là trên 5 năm, tài trợ cho các công trình xây dựng nh cầu, đờng, máy
móc thiết bị sử dụng lâu dài.
Phân loại theo rủi ro: tín dụng gồm các khoản có độ an toàn cao, khá,
trung bình và thấp. Cách phân loại này giúp Ngân hàng đánh giá đợc kịp
thời các khoản tín dụng, giúp cho việc đánh giá chất lợng tín dụng.
Ngoài ra, còn có thể xem xét nghiệp vụ tín dụng theo ngành kinh tế công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; theo mục đích sử dụng khoản tài trợ là sản
xuất, tiêu dùng hay thơng mại Quan hệ tín dụng đợc thiết lập giữa hai bên
là Ngân hàng và khách hàng, khách hàng là đối tác hết sức quan trọng trong
hoạt động tín dụng với Ngân hàng. Vì vậy, ngời ta cũng phân chia khách
hàng thành DN lớn, DN vừa và nhỏ, cá nhân hộ gia đình.
Rủi ro tín dụng: Rủi ro nói chung là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự
kiến. Còn rủi ro tín dụng đợc hiểu là khả năng xảy ra những tổn thất mà
Ngân hàng phải chịu do khách hàng không trả, trả không đúng hạn hay
không trả đủ vốn và lãi. Khi tiến hành một hoạt động tài trợ cụ thể, Ngân
hàng bằng các nghiệp vụ của mình sẽ chỉ tài trợ khi đó là một hoạt động
an toàn, không xảy ra rủi ro tín dụng. Nhng rủi ro rín dụng là khách quan,
khổng thể tránh khỏi nên Ngân hàng dự kiến một tỷ lệ tổn thất nhất định
trong chiến lợc hoạt động chung của mình. Để quản lý rủi ro tín dụng,
Ngân hàng cụ thể hoá những dấu hiệu phát sinh trong hoạt động tín dụng,
phản ánh rủi ro tín dụng.
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng d nợ: trong đó nợ quá hạn là khoản
nợ mà khách hàng không trả đợc khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp
đồng tín dụng. Đồng thời phải bóc tách xem xét đâu là nợ quá hạn có khả
năng thu hồi để có đợc đánh giá chuẩn xác hơn về tình hình tín dụng, đó là
các khoản nợ quá hạn trong thời hạn ngắn, tài sản đảm bảo giá trị đủ lớn,
khách hàng có thiện chí cố gắng và đa ra kế hoạch kinh doanh cũng nh trả nợ
hợp lý. Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng d nợ: trong đó nợ khó đòi là
khoản nợ quá hạn đã quá hạn một kỳ trả nợ, khách hàng có khả năng trả nợ
kém, chây ì, tài sản đảm bảo giảm gía trị Các khoản có vấn đề, là khoản
nợ có khả năng trở thành nợ quá hạn có dấu hiệu kém lành mạnh nh kế
hoạch SXKD chậm tiến độ, giá cả tăng giảm đột biến, hàng hoá chậm tiêu
thụ, gặp thiên tai Tình hình tài chính và phơng án kinh doanh, quan hệ tín
dụng giữa khách hàng và Ngân hàng, đảm bảo tiền vay thể hiện qua điểm
của khách hàng. Ngoài ra còn xem xét tới môi trờng vĩ mô, tính đa dạng của
tín dụng tới các đối tợng, ngành hay khách hàng
1.1.3 Tầm quan trọng của tín dụng tới doanh nghiệp vừa và nhỏ
Vốn kinh doanh là yếu tố tiền đề của mọi quá trình đầu t. Trong nền kinh tế
bao cấp với cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã không quan niệm vốn là hàng
hoá đặc biệt vì vốn đợc rót từ ngân sách và Ngân hàng. Vốn đã không đợc sử
dụng hiệu quả do không có nơi giao dịch trên thị trờng, điều đó đã làm mất đi
vai trò khách quan của nó trong sản xuất và đầu t. Vốn có một số đặc trng sau:
- Vốn đại diện cho một lợng giá trị tài sản, đợc biểu hiện bằng giá trị của
những tài sản nh thiết bị, nguyên liệu, chất xám, thông tin Vốn là một bộ
phận của tài sản, tài sản hoạt động mới gọi là vốn còn tài sản ở trạng thái
tĩnh chỉ là vốn tiềm năng.
- Vốn phải vận động sinh lời. Vốn biểu hiện bằng tiền nhng tiền chỉ là dạng
tiềm năng của vốn. Đồng tiền đó phải vận động sinh lời khi ấy mới thành
vốn. Trong quá trình vận động, đồng vốn có thể thay đổi hình thái biểu
hiện nhng điểm xuất phát và điểm kết thúc vẫn là giá trị, là tiền.
- Vốn phải đợc tích tụ tập trung đến một lợng nhất định mới có thể phát huy
tác dụng. Vốn phải đợc gom thành những món lớn để có thể đầu t vào
SXKD.
- Trong nền kinh tế thị trờng, vốn phải gắn với chủ sở hữu nhất định. Chỉ khi
xác định rõ chủ sở hữu thì đồng vốn mới đợc chi tiêu tiết kiệm, có hiệu
quả. Cần phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn, ngời sở hữu vốn
luôn luôn phải đợc u tiên bảo đảm quyền lợi của mình. Mối quan hệ này
tạo động lực thúc đẩy việc huy động vốn và quản lý vốn có hiệu quả.
- Trong nền kinh tế thị trờng, vốn phải đợc quan niệm là môt loại hàng hoá
đặc biệt. Vốn có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hoá vốn là giá
trị của bản thân nó còn giá trị sử dụng là ở chỗ khi sử dụng hàng hoá này
sẽ tạo ra đợc một giá trị sử dụng lớn hơn. Hàng hoá vốn cũng mua bán
trên thị trờng thị trờng tài chính nhng chỉ là mua quyền sử dụng mà
thôi. Nghĩa là quyền sở hữu vốn không di chuyển mà quyền sử dụng vốn
đợc chuyển nhợng qua việc vay nợ. Ngời vay vốn phải trả một tỷ lệ lãi
cho quyền sử dụng vốn ấy. Chính đặc trng này của vốn trong nền kinh tế
thị truờng đã làm xuất hiện khái niệm chi phi vốn.
Có thể khái quát, vốn kinh doanh ( bao gồm vốn sử dụng cho sản xuất kinh
doanh và vốn đầu t tài chính của doanh nghiệp ) là biểu hiện bằng tiền của
toàn bộ tài sản đợc đầu t vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Đối với bất kỳ một DN nào, vốn cũng là yếu tố cơ bản không thể thiếu của
mọi quy trình SXKD. Nó là điều kiện để đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng
sản xuất, nâng cao chất lợng sản phẩm, tăng việc làm và thu nhập cho ngời
lao động từ đó tạo điều kiện để doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh trên thị tr-
ờng, mở rộng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả SXKD. Tạo vốn đợc hiểu theo
nghĩa rộng là làm cho đồng tiền từ khâu dự trữ đi vào khâu lu thông trên cơ
sơ đảm bảo nguyên tắc sinh lời. Khi thành lập cũng nh trong quá trình phát
triển, các DN phải xác định đợc nhu cầu vốn, cần xem xét có thể tạo vốn từ
những nguồn nào, dới hình thức nào với chi phí vốn thấp nhất, từ đó để có
thể bảo đảm đầy đủ vốn, sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay
vốn. Đây là vấn đề hết sức quan trọng và khó khăn đặc biệt với DNVVN.
Căn cứ vào phạm vi huy động nguồn vốn mà DNVVN có khả năng huy
động thì có thể chia thành nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài DN.
Nguồn vốn bên trong thể hiện khả năng tự tài trợ của DN. Nguồn vốn bên
trong bao gồm vốn chủ sở hữu bỏ ra đầu t ban đầu và một phần nguồn vốn từ
chính hoạt động của bản thân DN. Tuy nhiên DNVVN với đặc điểm vốn đầu
t ban đầu thờng ít, quá trình tích tụ tập trung để tái sản xuất diễn ra chậm
chạp nên nguồn vốn bên trong này không đủ đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu t,
vợt quá khả năng vốn liếng của chủ DN. Điều đó đòi hỏi các DNVVN phải
huy động tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài DN. Sự phát triển của nền kinh tế
thị trờng đã làm nảy sinh nhiều hình thức và phơng pháp huy động vốn mới
cho DN. Đó có thể là vay vốn Ngân hàng, thuê tài chính, vay của bạn bè ngời
thân hay đối tác, gọi vốn liên doanh liên kết, phát hành chứng khoán hoặc
thu hút vốn thông qua sáp nhập DN, cổ phần hoá DN. Thị trờng chứng khoán
nớc ta mới đợc thành lập còn non trẻ và rất nhiều tồn tại cần khắc phục, nên
DNVVN phát hành chứng khoán khó đáp ứng các yêu cầu, thủ tục rờm rà và
khả năng hiệu quả là thấp. Liên doanh liên kết hay sáp nhập cần xem xét cân
nhắc kỹ lỡng, làm mất tính chủ động của chủ DN cũng nh hoạt động kinh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét