Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính ở việt nam hiện nay

xuống nên những nhu cầu tiêu dùng cao không thiết yếu sẽ được giảm xuống
. Những nhu cầu thiết yếu sẽ kịp thời được đáp ứng qua hoạt động bán
chứng khoán của người sử dụng chứng khoán. Như vậy tính thanh khoản cao
của chứng khoán trên thị trường tài chính đã thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư.
Thị trường tài chính là kênh huy động vốn đầu tư rất lớn. Nó không chỉ thu
hút huy động nguồn tài chính trong nước mà còn thu hút huy động nguồn tài
chính nước ngoài. Việc hình thành thị trường tài chính tạo điều kiện cho các
nhà đầu tư nước ngoài có các nguồn tài chính với quy mô khác nhau có thể
bỏ vào đầu tư mua các chứng khoán trên thị trường tài chính một cách dễ
dàng, nhờ đó nguồn tài chính với các quy mô khác nhau được vận động từ
nước ngoài vào trong nước mà không cần phải qua các thủ tục phức tạp và
không cần số vốn lớn như các hình thức đầu tư trực tiếp. Thị trường tài
chính là nơi các nhà đầu tư nước ngoài theo dõi và nhận định hoạt động của
các ngành, các doanh nghiệp trong nước. Nó là cầu nối giữa vốn đầu tư nước
ngoài với vốn đầu tư trong nước, góp phần thực hiện chính sách “mở cửa
nền kinh tế “. Như vậy, thị trường tài chính bổ xung thêm hình thức đầu tư
của nước ngoài vào trong nước, tận dụng được nguồn tài chính của nước
ngoài cung cấp cho sự phát triển kinh tế xã hội trong nước.
Vai trò thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính:
Việc huy động và sử dụng nguồn tài chính trên thị trường tài chính diễn ra
trên cơ sở quan hệ cung cầu. Khi sử dụng bất kỳ nguồn tài chính cũng phải
trả giá. Điều đó buộc người cần nguồn tài chính phải quan tâm đến hiệu quả
sử dụng đồng vốn bằng việc lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu, lựa chọn
hình thức và thời điểm thích hợp để giảm giá của việc tài trợ. Mặt khác, thị
trường tài chính bắt buộc các doanh nghiệp phải công bố các vấn đề tài
chính, những thông tin về doanh nghiệp và phải đảm bảo tính chính xác của
5
các thông tin đó. Ban quản lý thị trường chỉ chấp nhận các chứng khoán của
doanh nghiệp có đủ điều kiện: kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có
doanh lợi và dân chúng chỉ mua chứng khoán của những doanh nghiệp thành
đạt, tương lai sáng sủa. Với sự tự do lựa chọn của người mua chứng khoán,
không còn cách nào khác hơn là các nhà quản lý doanh nghiệp phải tính toán
làm ăn đàng hoàng và sử dụng nguồn tài chính, cả tự có, cả đi vay phải có
hiệu quả .
Thị trường tài chính không chỉ thúc đẩy sự dụng có hiệu quả nguồn tài chính
trong từng doanh nghiệp mà còn thúc đẩy sử dụng có hiệu quả nguồn tài
chính trong tổng thể nền kinh tế. Sự đa dạng hoá về thời hạn sử dụng các
nguồn tài chính, vừa tận dụng được nguồn tài chính trong nền kinh tế, vừa
tạo điều kiện cho nguồn tài chính vận động từ nơi kinh doanh kém hiệu quả
sang nơi kinh doanh có hiệu quả hơn. với chức năng cung cấp thông tin
chính xác, thị trường tài chính giúp cho người có nguồn tài chính phân tích
và có quyết định đúng đắn, đảm bảo cho nguồn tài chính của mình vận động
đúng đến nơi mà chúng được sử dụng có hiệu quả.
Vai trò trong việc thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của
Nhà nước:
Thị trường tài chính hoạt động đã bổ sung thêm hình thức huy động nguồn
tài chính cho các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian bằng cách
phát hành cổ phiếu, trái phiếu , giải quyết khó khăn về mặt tài chính, phục
vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian. Thị
trường tài chính còn tạo điều kiện và thúc đẩy các chủ thể lựa chọn hướng
đầu tư đúng đắn và sử dụng vốn có hiệu quả nên đã góp phần thực hiện
chính sách huy động nguồn tài chính, sử dụng nguồn tài chính hay chính
sách tài chính. Một bộ phận quan trọng của chính sách tài chính là chính
6
sách ngân sách. Tận dụng các nguồn thu ngân sách, chi tiêu tiết kiệm có hiệu
quả, giải quyết bộ chi và cân đối thu chi ngân sách luôn luôn là vấn đề đặt ra
trong chính sách tài chính của một quốc gia. Thị trường tài chính lại là nơi
Nhà nước tiên shành vay nợ dân chúng một cách dễ dàng nhất. Nhà nước
cũng có thể vay các tổ chức và cá nhân nước ngoài thông qua việc phát hành
trái phiếu bằng ngoại tệ. Ở hầu hết các nước, việc Nhà nước vay tiền của dân
đã trở thành thông dụng và tiền vay đã trở thành nguồn thu thường xuyên để
cân đối ngân sách. Đây cũng là giải pháp tích cực vì Nhà nước không phải
phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách. Điều này sẽ góp phần giải quyết
một trong những nguyên nhân chủ yếu của luật pháp, làm giảm áp lực của
lạm phát, kiềm chế lạm phát. Đồng thời, thị trường tài chính hoạt động có
hiệu quả cũng giảm tiêu dùng cao, tăng cung nguồn tài chính, khuyến khích
đầu tư. Như vậy sẽ góp phần làm giảm cầu kéo, giảm chi phí đẩy, tăng cung
hàng hóa, góp phần giải quyết lạm phát, thực hiện chính sách tiền tệ.
Thị trường tài chính còn là nơi cung cấp các dữ liệu giúp cho Nhà nước có
biện pháp điều hoà lưu thông tiền tệ. Việc dân chúng đầu tư vào thị trường
tài chính sẽ giúp Nhà nước điều tiết được lượng tiền trong lưu thông qua cơ
chế thị trường mở. Việc Nhà nước mua chứng khoán vào có tác dụng bơm
thêm tiền vào chu chuyển kinh tế và ngược lại việc bán chứng khoán ra sẽ
rút bớt lượng tiền khỏi chu chuyển kinh tế. Nhà nước cũng có thể thay đổi
lãi suất tiền gửi, tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu
để thực hiện điều hoà lưu thông tiền tệ.
Điều hoà nguồn tài chính trong tổng thể nền kinh tế, nhằm thoả mãn nhu cầu
nguồn tài chính cho nền kinh tế đi đôi với nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
tài chính luôn luôn là mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia. Thông qua
sử dụng các công cụ trên thị trường và cơ chế hoạt động của thị trường, bằng
hoạt động phát hành và mua bán chứng khoán cả thị trường tập trung và phi
7
tập trung, dưới tác động của quy luật cung cầu, nguồn tài chính sẽ vận động
từ những ngành, những vùng thừa nguồn tài chính đến những ngành, những
vùng thiếu nguồn tài chính thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế nhằm đặt được
mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia.
Khi xem xét vai trò thị trường tài chính cũng cần thấy rằng: ngoài những vai
trò, những tác động tích cực, thị trường tài chính cũng có những hạn chế,
những khuyết tật thể hiện qua hoạt động đầu cơ, bán khống các chứng
khoán Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải nẵm vững cơ chế vận hành của thị
trường, có những biện pháp hữu hiệu kiểm soát các hoạt động của thị trường
làm cho thị trường hoạt động lành mạnh.
1.2 Các chủ thể của thị trường Tài chính :
Thị Trường Tài Chính là nơi diễn ra hoạt động dẫn vốn từ người cho vay-tiết
kiệm tới người vay-người chi tiêu nên Thị Trường Tài Chính có 2 chủ thể đó
chính là : chủ thể đi vay và chủ thể cho vay(đầu tư).
1.2.1 Chủ thể đi vay :
1.2.1.1 Chính Phủ:
Đi vay trên Thị Trường Tài Chính bằng cách phát hành trái phiếu kho bạc…
để bù đắp cho sự thiếu hụt ngân sách nhà nước.
1.2.1.2 Các công ty:
Việc thiếu vốn sản xuất là điều thường xảy ra trong hoạt động của các doanh
nghiệp. Không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng có thể giải quyết vấn đề
này bằng cách vay ngân ha`ng. Hơn nữa khi muốn mở rộng sản xuất, đầu tư
thêm trang thiết bị, cơ sở vật chất, các doanh nghiệp thường cần vốn lớn với
thời hạn dài để đáp ứng yêu cầu như vậy. Cách phổ biến nhất là các doanh
8
nghiệp huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu trên Thị
Trường Tài Chính.
1.2.1.3 Các hộ gia đình:
Hộ gia đình cũng vay trên Thị Trường Tài Chính để đáp ứng nhu cầu sản
xuất kinh doanh và yêu cầu chi tiêu khác của mình.
1.2.2 Chủ thể cho vay hay đầu tư :
Khi 1 chủ thể đồng ý giao tiền hoặc tài sản để nhận lại 1 trái phiếu của người
khác, anh ta đã biến mình thành chủ thể cho vay. Bởi vì mọi khoản vay đều
được hoàn trả cả vốn và lãi, nên hoạt động cho vay đã làm cho tiền mặt, tài
sản tạo thêm ra những giá trị mới. chính quá trình tạo ra giá trị mới này đã
làm cho việc cho vay trở thành các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Có các
chủ thể cho vay, đó là: Các hộ gia đình, các công ty bảo hiểm, các trung gian
tài chính, các công ty và Chính Phủ.
1.2.2.1. Các hộ gia đình:
Là những người cho vay chủ yếu thông qua việc mua trái phiếu hoặc gửi tiên
vào ngân ha`ng.
1.2.2.2. Các công ty bảo hiểm:
Nhận tiền bảo hiểm của dân chúng sau đó đem cho các ngân ha`ng, các công
ty vay hoặc mua trái phiếu. Các khoản cho vay của công ty bảo hiểm thường
là các khoản cho vau dài hạn.
1.2.2.3. Các trung gian tài chính:
Các ngân hàng sinh ra là đi vay để cho vay. Mặc dù các ngân hàng chỉ là
trung gian của việc vay và cho vay, không phải là chủ thể cuối cùng, no vẫn
đóng vai trò quan trọng nhất trong việc cho vốn chu chuyển từ chủ thể này
sang chủ thể khác.
1.2.2.4. Các công ty và Chính Phủ:
9
Các công ty và Chính Phủ khi có tiền nhàn rỗi họ đều tìm cách làm sinh lợi
dưới dạng mua trái phiếu hoặc gửi tiền vào ngân hàng.
1.3 Cấu trúc của thị trường Tài chính :
Có thể phân loại thị trường tài chính theo nhiều cách khác nhau
1.3.1 Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần :
- Thị trường nợ
Phương pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để vay vốn trên Thị
Trường Tài Chính là đưa ra 1 công cụ nợ, ví dụ như là trái khoán hay 1 món
vay thế chấp. Công cụ nợ là sự thoả thuận có tính chất hợp đồng, trong đó
người vay thanh toán cho người nắm giữ công nợ một khoản tiền lãi cố định,
và hoàn trả tiền vốn vào cuối kỳ hạn. Nếu kỳ hạn thanh toán của công nợ
dưới 1 năm, người ta gọi đó là công cụ nợ ngắn hạn, nếu từ1 năm trở lên gọi
là công cụ nợ trung và dài hạn. Thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ
nợ kể trên được gọi là thị trường nợ.
- Thị trường vốn cổ phần
Phương pháp thứ 2 để thu hút vốn là các công ty phát hành cổ phiếu. Nười
nắm giữ cổ phiếu sở hữu 1 phần tài sản của công ty và có quyền được chia
lợi nhuận từ thu nhập ròng của công ty sau khi trừ chi phí và thuế.Việc sở
hữu cổ phiếu khác với sở hữu công cụ nợ (trái phiếu) là ở chỗ người sở hữu
cổ phiếu chỉ nhận được tiền lãi sau khi công ty đã thanh toán cho chủ nợ
(người sở hữu công cụ nợ). Nhưng lợi ích củaviệc nắm giữ các cổ phần vốn
là ở chỗ,cổ đông được hưởng lợi trực tiếp do lợi nhuận hoặc do giá trị tài sản
của công ty tăng lên. Trong khi đó người nắm giữ công cụ nợ không nhận
được gì từ khoản lợi nhuận này.
10
1.3.2 Thị trường cấp 1 và thị trường cấp 2 :
- Thị trường cấp 1 ( sơ cấp )
Là Thị Trường Tài Chính trong đó diễn ra việc mua bán chứng khoán đang
phát hành hay chứng khoán mới. Các loại hành hóa như cổ phiếu, trái phiếu
của công ty và của Chính Phủ khi mới được phát hành đều được đem bán ở
thị trường cấp này. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường cấp một
thường được tiến hành thông qua trung gian tài chính đó là ngân hàng. Ngân
hàng này thường được xem như là ngân hàng đầu ttư hay ngân hàng bảo
hiểm cho việc phát hành thông qua việc bảo đảm giá cố định của chứng
khoán trong quá trình phát hành. Ngân hàng bảo hiểm thường trực tiếp bỏ
tiền để mua hết lô chứng khoán(với giá thấp hơn giá thông báo),sau đó bán
lại ngay trên thị trường với giá cao hơn(giá công bố) để kiếm lời.
- Thị trường cấp 2 ( thứ cấp )
Là thị trường mua bán lại những chứng khoán đã phát hành (chứng khoán
cũ). Khi một cá nhân mua nó, nhận được tiền bán chứng khoán, nhưng công
ty người đã phát chứng khoán lần đầu tiên không thu được tiền nữa. Một
công ty thu được vốn chỉ khi chứng khoán của nó được bán lần đầu tiên trên
thị trường cấp một. Việc mua bán ở thị trường cấp hai thường được thực
hiện thông qua công ty môi giới.
Thị trường cấp hai có thể được tổ chức theo hai cách:
- Thứ nhất, là tổ chức các sở giao dịch, ở đó người mua và người bán (hoặc
đại lý môi giới của họ ) gặp nhau tại vị trí trung tâm để tiến hành buôn bán.
- Thứ hai, là thị trường trao tay(Over the Counter Market),trong đó các nhà
buôn bán tại các địa điểm khác nhau có một danh mục chứng khoán và đứng
11
ra sẵn sàng mua và bán chứng khoán theo kiểu mua bán thẳng cho bất kỳ ai
đến với họ.
Vì vậy thị trường cấp hai thực hiện hai chức năng:
- Thứ nhất, nó tạo điều kiện dễ dàng để bán những công cụ tài chính nhằm
thu tiền mặt, tứ là nó làm cho những công cụ tài chính này “lỏng” thêm.
Tính “lỏng” thêm của những công cụ tài chính sẽ khiến chúng được ưa
chuộng hơn và như thế làm dễ dàng hơn cho công ty phát hành bán chúng ở
thị trường cấp một.
- Thứ hai, thị trường cấp hai xác định giá của chứng khoán ma công ty phát
hành bán ra ở thị trường cấp một. Những hang mua các chứng khoán ở thị
trường cấp một sẽ chỉ thanh toán cho công ty phát hành với giá mà hj cho
rằng thị trường cấp hai sẽ chấp nhận nó. Giá chứng khoán ở thị trường cấp
hai càng cao thì giá công ty phát hành sẽ nhận được do phát hành chứng
khoán ở thị trường cấp một sẽ càng cao và vì vậy, công ty phát hành nhận
được tổng vốn đầu tư cao hơn. Chính vì lý do này mà khi nghiên cứu Thị
Trường Tài Chính, người ta thường tập trung nghiên cứu phương thức diễn
biến của thị trường cấp hai hơn là thị trường cấp một.
1.3.3 Thị trường tiền tệ và thị trường vốn :
Cách khác để phân biệt giữa các loại thị trường là dựa trên cơ sở kỳ hạn
thanh toán của các chứng khoán được mua bán trên thị trường đó.
- Thị trường tiền tệ
Là 1 thị trường tài chính, trong đó chỉ có những công cụ ngắn hạn (kỳ hạn
thanh toán dưới 1 năm) được mua bán. Chứng khoán của thị trường tiền tệ
thường được mua bán rộng rãi hơn với chứng khoán dài hạn và như vậy có
xu hướng lỏng hơn. Hay nói cách khác, hàng hoá mua bán trên thị trường
12
tiền tệ có tính thanh khoản rất cao. Ngoài ra, chứng khoán ngắn hạn có giao
động giá trị nhỏ hơn với các chứng khoán dài hạn, do vậy chúng là những
khoản đầu tư an toàn hơn.Doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng
thương mại thường là các tác nhân tham gia mua bán chủ yếu trên thị trường
này. Khi ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng, nó phát hành ra các loại
phiếu nợ như: sổ tiền gửi có kỳ hạn,chứng chỉ tiền gửi(CD),hoặc nó vay tiền
bằng cách bán ra trái phiếu,tín phiếu… Quá trình như vậy làm xuất hiện các
hàng hoá,dễ dàng cho việc mua bán, thanh toán, chuyển dịch hoặc cất trữ để
sinh lời.
- Thị trường vốn
Là thị trường trong đó diễn ra việc mua bán các công cụ vay nợ dài hạn như
cổ phiếu, trái phiếu.Thị trường vốn lại được phân thành ba bộ phận: thứ nhất
là thị trường cổ phiếu,chiếm tỷ lệ rất lớn trong thị trường vốn;bộ phận lớn
thứ 2 của thị trường vốn là các khoản cho vay thế chấp; và nhóm thứ ba của
thị trường vốn là thị trường trái phiếu dài hạn của các công ty.
Để hiểu rõ, đầy đủ về việc làm cách nào Thị Trường Tài Chính thực hiện
được vai trò quan trọng trong việc dẫn vốn từ người cho vay-tiết kiệm tới
người vay-người chi tiêu,chúng ta cần nghiên cứu các loại chứng khoán
được mua bán trong Thị Trường Tài Chính. Trước hết chúng ta tập trung vào
những công cụ được mua bán trong thị trường tiền tệ và sau đó đến những
công cụ được mua bán ở thị trường vốn.
1.4 Các công cụ trên thị trường Tài chính :
1.4.1 Các công cụ trên thị trường tiền tệ :
13
Do kỳ hạn thanh toán ngắn những công cụ vay nợ được mua bán trên thị
trường tiền tệ chịu mức dao động giá tối thiểu và do đó nó là loại đầu tư ít
rủi ro nhất.
- Tín phiếu kho bạc (Bills)
Những công cụ vay nợ ngắn hạn này của ngắn hạn này của Chính Phủ
thường được phát hành với kỳ hạn thanh toán 3,6 và 12 tháng. Chúng được
trả lãi với mức lãi suất cố định và được hoàn trả vốn khi đến hạn thanh toán
hoặc chúng được tahnh toán lãi do việc bán lần đầu có giảm giá. Tức là, với
giá thấp hơn so với khoản tiền đã định được thanh toán khi hết hạn. Đây là
loại lỏng nhất trong tất cả các công cụ trên thị trường tiền tệ, do vậy, chúng
được mua bán nhiều nhất, chúng cũng là loại công cụ an toàn nhất trong tất
cả các loại công cụ ở thị trường tiền tệ.
- Giấy chứng nhận tiền gửi của ngân hàng (CDs)
Là một công cụ vay nợ do ngân hàng thương mại bán cho người gửi tiền.
Người gửi được thanh toán lãi hàng năm theo 1 tỷ lệ nhất định và khi đến kỳ
hạn tahnh toán thì hoàn trả gốc theo giá mua ban đầu. Trước năm 1961, CD
là không thể bán lại được, tức là chúng không thể bán lại hoặc không được
hoàn trả trước kỳ hạn nếu không chịu một khoản phạt đáng kể. Năm 1966,
nhằm làm cho CD lỏng và hấp dẫn những người đầu tư hơn, Citibank đã lần
đầu phát hành CD bán lại được đối với những loại có mệnh giá cao (trên
100.000 đô la). CD có thể được bán lại ở thị trường cấp hai. Hiện nay công
cụ này được hầu hết các ngân hàng thương mại lớn phát hành và thu được
thành công to lớn, với tổng số dư gần đây vượt quá tổng số dư của tín phiếu
kho bạc. Chúng là tổng nguồn vốn dặc biệt quan trọng mà những ngân hàng
thương mại thu hút được từ các công ty, các quỹ tương trợ thị trường tiền tệ,
các tổ chức từ thiện va các cơ quan của Chính Phủ.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét