Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014

hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu ở công ty cổ phần xuất nhập khẩu viglacera


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu ở công ty cổ phần xuất nhập khẩu viglacera": http://123doc.vn/document/1053800-hoan-thien-quy-trinh-to-chuc-thuc-hien-hop-dong-nhap-khau-o-cong-ty-co-phan-xuat-nhap-khau-viglacera.htm


1.1.2.1. Đối với quốc gia nhập khẩu
Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và
đời sống trong nước. Bởi vì, không một quốc gia nào có khả năng sản xuất
hiệu quả đối với tất cả các loại hàng hoá. Theo thuyết lợi thế so sánh, các
quốc gia đều muốn đạt tới lợi ích tối đa, do đó hoạt động nhập khẩu là một
hoạt động tất yếu. Nó cho phép các quốc gia có thể sử dụng được tất cả các
loại hàng hoá với chất lượng tốt nhất và mức giá rẻ nhất.
Nhập khẩu góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ tiên
tiến, hiện đại cho sản xuất các hàng hoá, cho tiêu dùng mà trong nước không
sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng được đủ nhu cầu.
Nhập khẩu còn là để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những thứ mà sản
xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu, làm được như vậy sẽ tác
động đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh
tế quốc dân về sức lao động, vốn, tài nguyên và khoa học kỹ thuật. Đặc biệt là
đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam khi mà trình độ khoa học
công nghệ còn thấp, lực lượng sản xuất chưa phát triển. Hướng đi tốt cho các
quốc gia này là nhập khẩu các trang thiết bị máy móc, công nghệ phục vụ
cho xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để theo kịp sự phát triển của thế giới mà
không mất thời gian, nguồn lực để nghiên cứu tạo ra công nghệ đó.
Như vậy, nhập khẩu đã và đang tác động một cách trực tiếp và quyết
định đến sản xuất và đời sống các quốc gia. Bản thân nhập khẩu tự nó đã có
vai trò to lớn, nó là một tiến trình giao tiếp và hoà nhập nền kinh tế quốc gia
với nền kinh tế thế giới. Với những lý do đó, nhập khẩu có vai trò lớn trong
quá trình phát triển của Việt Nam, được thể hiện thông qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất, nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Thông qua hoạt động nhập khẩu chúng ta đã được tiếp
5
xúc với những trang thiết bị hiện đại, tiên tiến, dần từng bước theo kịp các
nước phát triển. Đồng thời với những trang thiết bị đó, chúng ta thực sự làm
quen với nhịp độ công nghệ mới, lao động trong môi trường mới - tự động.
Do đó trong sản xuất có sự thay đổi lớn.
Thứ hai, nhập khẩu góp phần bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối
của nền kinh tế, đảm bảo một sự phát triển cân đối và ổn định, khai thác đến
mức tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế.
Thứ ba, nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân
dân. Bên cạnh việc thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu
dùng, hoạt động nhập khẩu còn đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm
ổn định cho người lao động.
Thứ tư, nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu, góp phần
nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho
việc xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài.
1.1.2.2. Đối với các doanh nghiệp
Cũng như đối với nền kinh tế, hoạt động nhập khẩu đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp
kinh doanh XNK nói riêng. Bởi vì đây là một trong những nghiệp vụ đảm bảo
cho quá trình sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp diễn ra một cách
thường xuyên, liên tục, là chìa khoá mở ra cánh cửa cho hoạt động kinh
doanh quốc tế của các doanh nghiệp đồng thời là nguồn thu lớn đóng góp vào
lợi nhuận cho toàn doanh nghiệp và đảm bảo công ăn việc làm cho cán bộ
công nhân viên của doanh nghiệp. Có thể kháí quát vai trò của hoạt động
nhập khẩu đối với các doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất, nhập khẩu góp phần đổi mới máy móc thiết bị, thay đổi
phương thức quản lý, sản xuất nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
6
Thứ hai, nhập khẩu góp phần mở rộng quan hệ của doanh nghiệp với
các bạn hàng trong nước và quốc tế. Tạo ra những cơ hội làm ăn mới cho
doanh nghiệp.
Thứ ba, nhập khẩu cũng có vai trò nâng cao năng lực cạnh tranh cho
các sản phẩm của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của nghành trên bình
diện quốc gia cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, ngành,
quốc gia trên bình diện quốc tế. Điều này có vai trò rất quan trọng trong quá
trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế mà trong đó các doanh nghiệp Việt
Nam là một chủ thể không thể tách rời đối với tiến trình này.
Thứ tư, nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh, do vậy nhập khẩu cũng
góp phần vào việc đảm bảo mục tiêu của doanh nghiệp.
Tóm lại, vai trò của nhập khẩu là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, nhập
khẩu như thế nào lại là vấn đề nan giải. Nếu nhập khẩu một cách ồ ạt các thiết
bị cũ kĩ lạc hậu hoặc nhập khẩu các sản phẩm trong nước đã sản xuất được sẽ
bóp chết nền sản xuất trong nước gây thiệt hại đến lợi ích của quốc gia. Vì
vậy cần phải có chính sách nhập khẩu hợp lý để khai thác triệt để lợi ích của
nhập khẩu cũng như mỗi bản thân doanh nghiệp phải nhận thức được hoạt
động nhập khẩu mà doanh nghiệp đang tiến hành trên nhiều mặt, không chạy
theo mụch đích lợi nhuận mà bỏ qua lợi ích xã hội.
1.1.3. Các hình thức nhập khẩu hàng hoá
Do điều kiện kinh doanh và sự sáng tạo, năng động của các doanh nhân
nên trên thực tế đã xuất hiện rất nhiều hình thức nhập khẩu.Tuỳ theo các tiêu
chí khác nhau mà ta có thể phân chia các hình thức nhập khẩu thành các nhóm
khác nhau. Một số cách phân loại chủ yếu đó là:
• Theo chủ thể của hoạt động nhập khẩu:
+ Nhập khẩu tự doanh (Nhập khẩu trực tiếp).
+ Nhập khẩu uỷ thác.
7
• Theo mục đích nhập khẩu:
+ Nhập khẩu hàng mậu dịch.
+ Nhập khẩu hàng phi mậu dịch.
• Theo phương thức nhập khẩu:
+ Nhập khẩu theo phương thức mua bán thông thường.
+ Nhập khẩu theo phương thức hàng đổi hàng.
• Theo nguồn gốc và hình thức giao hàng:
+ Nhập khẩu trực tiếp.
+ Nhập khẩu uỷ thác.
+ Tạm nhập tái xuất.
Trong đó, cách phân loại dựa theo tiêu chí chủ thể của hoạt động nhập
khẩu là cách phân loại phổ biến nhất, được nhiều người sử dụng. Sau đây em
xin đi sâu trình bày về các hình thức nhập khẩu dựa theo cách phân loại này:
1.1.3.1. Nhập khẩu tự doanh
Đây là hình thức nhập khẩu trực tiếp. Trong đó, bên mua và bên bán
trực tiếp giao dịch với nhau, hàng hoá được mua trực tiếp từ nước ngoài mà
không thông qua trung gian. Bên xuất khẩu trực tiếp giao hàng cho bên nhập
khẩu.
Theo hình thức này có những bước giao dịch là hỏi giá, phát giá, đặt
hàng, hoàn giá, chấp nhận, xác nhận. Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu
phải trực tiếp làm các hoạt động nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước,
tìm kiếm đối tác, giao dịch, đàm phán kí kết hợp đồng và tự bỏ vốn để tổ
chức kinh doanh hàng nhập khẩu, phải chịu mọi chi phí như: nghiên cứu thị
trường, giao dịch, kí kết hợp đồng, giao nhận, lưu kho, tiêu thụ hàng hoá
Khi nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp XNK được tính kim ngạch và khi
tiêu thụ thì phải chịu thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp. Các
8
doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu theo hình thức này phải chịu hoàn toàn
trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình từ thu thập thông tin thị
trường cho đến kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Độ rủi ro của hình
thức nhập khẩu trực tiếp cao hơn so với hình thức nhập khẩu qua trung gian
nhưng lại mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp.
Hình thức nhập khẩu này được sử dụng phổ biến ở nước ta hiện nay. Vì
xu hướng giảm dần các doanh nghiệp nhà nước và thay vào đó là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, nên các doanh nghiệp có điều kiện cũng như mong muốn
được nhập khẩu trực tiếp để tăng thu. Hơn nữa, loại hình này áp dụng trong
nhập khẩu những hàng hoá thông thường nên khối lượng lớn và liên tục.
1.1.3.2. Nhập khẩu uỷ thác
Là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước
có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu cần nhập khẩu một số loại hàng hoá nhưng
không có quyền tham gia hoặc không có điều kiện nhập khẩu trực tiếp đã uỷ
thác cho doanh nghiệp khác có chức năng trực tiếp tham gia giao dịch ngoại
thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình.
Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài và
làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác. Bên nhận uỷ
thác sẽ nhận được một phần thù lao gọi là phí uỷ thác.
Trong hoạt động này, doanh nghiệp XNK (bên nhận uỷ thác) sẽ không
phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị
trường tiêu thụ cho hàng hoá mà chỉ đứng ra đại diện bên uỷ thác tiến hành
giao dịch, đàm phán, kí kết hợp đồng, làm thủ tục nhập hàng cũng như thay
mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với đối tác nước ngoài khi có tổn
thất. Hình thức này giúp cho doanh nghiệp nhận uỷ thác không mất nhiều chi
phí, độ rủi ro thấp nhưng lợi nhuận từ hoạt động này không cao.
9
Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu
uỷ thác sẽ phải lập hai hợp đồng là hợp đồng nhập khẩu ký với đối tác nước
ngoài và một hợp đồng nhận uỷ thác nhập khẩu với bên uỷ thác.
Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác, doanh nghiệp nhận uỷ thác sẽ chỉ tính
kim nghạch nhập khẩu chứ không tính vào doanh số. Hợp đồng nhập khẩu uỷ
thác thường áp dụng cho những hàng hoá chuyên dùng, máy móc thiết bị kĩ
thuật.
1.1.4. Quy trình hoạt động nhập khẩu
1.1.4.1. Nghiên cứu thị trường
Đây là công việc đầu tiên mà bất kì một doanh nghiệp kinh doanh XNK
nào cũng cần phải thực hiện và phải trở thành công việc thường xuyên trong
hoạt động XNK của doanh nghiệp.
 Nghiên cứu thị trường trong nước.
Các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu luôn phải tự quyết định: mua cái
gì, bán cho ai, theo hình thức nào và với giá là bao nhiêu mà vẫn thu được lợi
nhuận? và để giải quyết những vấn đề này thì việc nghiên cứu thị trường
trong nước là vô cùng quan trọng, là tiền đề để có được những quyết định
đúng đắn. Khi nghiên cứu thị trường trong nước, doanh nghiệp cần phải quan
tâm đến những thông tin như:
− Tình hình kinh tế và các số liệu thống kê về kinh tế và ngoại thương,
các yếu tố kinh tế, tài chính và thị trường vào thời điểm hiện tại có ảnh hưởng
đến nhu cầu nhập khẩu hay không?
− Tìm hiểu các thông tin về sản phẩm thông qua các cơ hội bán hàng, số
lượng khách hàng có nhu cầu mua hàng, sức mua của thị trường, nhịp độ mua
mặt hàng đó trên thị trường (chu kì mua lặp lại).
− Tìm hiểu đối thủ cạnh tranh trên thị trường về năng lực, thị phần,
khách hàng, kỹ thuật xúc tiến thương mại.
10
− Tìm hiểu các chính sách và pháp luật thương mại, các kế hoạch phát
triển kinh tế và ngoại thương, các thủ tục hành chính hải quan và yêu cầu về
chứng từ XNK.
 Nghiên cứu thị trường nước ngoài.
Thông tin về thị trường quốc tế là những thông tin cần thiết và rất quan
trọng đối với hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Nó giúp doanh nghiệp
lập chiến lược, kế hoạch kinh doanh và thực hiện hoạt động thương mại và
đặc biệt là xúc tiến thương mại nhằm lựa chọn được bạn hàng đáng tin cậy,
nguồn hàng ổn định và có chất lượng phù hợp với nhu cầu của thị trường
trong nước.
Nghiên cứu thị trường quốc tế là công việc rất khó khăn và phức tạp do
sự khác biệt lớn về chính trị, địa lý, văn hoá, phong tục tập quán. Mục đích
của công việc này là nhằm tìm hiểu thông tin về khả năng sản xuất, giá cả và
sự biến động của thị trường, môi trường kinh tế chính trị, luật pháp và tập
quán kinh doanh của các bạn hàng quốc tế.
Khi nghiên cứu thị trường quốc tế, doanh nghiệp cần nắm vững được
tình hình các nguồn cung cấp trên thị trường quốc tế mà doanh nghiệp có khả
năng giao dịch rồi từ đó nghiên cứu đặc điểm các nước cung cấp trên các
phương diện:
− Phân tích tình hình cung - cầu của hàng hoá mà doanh nghiệp dự định
nhập khẩu.
− Tìm hiểu những thông tin về thị trường như: các thông tin đại cương
về đất nước con người, tình hình về chính trị xã hội, những thông tin kinh tế
cơ bản, cơ sở hạ tầng, các chính sách kinh tế ngoại thương, tìm hiểu hệ thống
ngân hàng, tín dụng, điều kiện vận tải và tình hình giá cước.
− Nghiên cứu về giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới.
11
Doanh nghiệp cần chú ý thu thập thông tin trên thị trường quốc tế thông
qua các nguồn như: sách, báo, tạp chí, bản tin, internet, hội chợ triển lãm, hội
thảo, các tổ chức xúc tiến thương mại, đại diện thương mại, tổ chức dịch vụ
thông tin chuyên nghiệp, các tổ chức liên quan đến hoạt động XNK như ngân
hàng, hải quan, hãng vận tải
1.1.4.2. Lập phương án kinh doanh.
Phương án kinh doanh là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt đến
những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Sau khi đã hoàn tất việc nghiên
cứu thị trường, doanh nghiệp phải lập ra được một phương án kinh doanh.
Một phương án kinh doanh thường gồm những nội dung cơ bản như:
tình hình hàng hoá, thị trường và khách hàng, dự đoán hướng biến động của
thị trường, xác định thời cơ mua bán, phương hướng thị trường và thương
nhân, đặt ra mục tiêu (tối đa và tối thiểu), biện pháp hành động cụ thể, sơ bộ
đánh giá hiệu quả.
Dựa trên những thông tin đã thu thập được thông qua nghiệp vụ nghiên
cứu thị trường trong và ngoài nước, doanh nghiệp phải đưa ra được phương
án kinh doanh tối ưu của mình.
Để lập một phương án kinh doanh, doanh nghiệp cần tiến hành các
bước sau:
• Bước 1: Đánh giá tổng quát tình hình thị trường và thương nhân. Phân
tích những khó khăn, thuận lợi trong kinh doanh.
• Bước 2: Lựa chọn các mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức
kinh doanh (phải chứng minh được sự lựa chọn của mình là đúng trên cơ sở
phân tích tình hình thực tế).
• Bước 3: Đề ra mục tiêu: phải là những mục tiêu cụ thể, bằng số liệu rõ
ràng: sẽ bán (mua) bao nhiêu hàng? với giá cả bao nhiêu? sẽ thâm nhập vào
thị trường nào? mua (bán) với ai?
12
• Bước 4: Đề ra biện pháp thực hiện. Những biện pháp này là những
công cụ để đạt tới những mục tiêu đề ra. Bao gồm cả những biện pháp ở trong
nước và những biện pháp ở nước ngoài.
• Bước 5: Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông
qua việc tính một loạt các chỉ tiêu như: tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu, thời
gian hoàn vốn, điểm hoà vốn…
1.1.4.3. Giao dịch và đàm phán.
 Giao dịch.
Sau khi đã hoàn tất công tác chuẩn bị, doanh nghiệp nhập khẩu sẽ tiến
hành giao dịch, thương lượng để đi đến kí kết hợp đồng mua bán với đối tác
mà mình đã lựa chọn. Trong kinh doanh TMQT hiện nay có rất nhiều phương
thức giao dịch. Mỗi phương thức giao dịch lại có những đặc điểm riêng khác
nhau. Đối với nhà nhập khẩu, quá trình giao dịch thường gồm những công
việc sau:
• Hỏi giá hoặc đặt hàng.
Hỏi giá là việc người mua đề nghị người bán báo cho mình biết giá cả
và các điều kiện để mua hàng. Nội dung của một hỏi giá thường bao gồm: tên
hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng mong muốn. Giá cả
mà người mua có thể trả cho mặt hàng đó thường được người mua giữ kín,
nhưng để tránh mất thời gian hỏi đi hỏi lại, người mua nêu rõ những điều kiện
mà mình mong muốn để làm cơ sở giao hàng. Hỏi giá không ràng buộc trách
nhiệm của người hỏi giá, cho nên người hỏi giá có thể hỏi nhiều nơi nhằm
nhận được nhiều bản chào hàng cạnh tranh nhau để so sánh lựa chọn bản chào
hàng thích hợp nhất. Tuy nhiên, nếu người mua hỏi giá nhiều nơi quá sẽ gây
nên thị trường ảo tưởng là nhu cầu quá căng thẳng. Đó là điều không có lợi
cho người mua.
13
Đặt hàng là việc người nhập khẩu đề nghị kí kết hợp đồng mua bán
hàng hoá. Trong đơn đặt hàng, người mua nêu cụ thể về hàng hoá định mua
và tất cả những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng.
• Xử lý chào hàng của người bán gửi đến.
Chào hàng là lời đề nghị ký kết hợp đồng của người bán về việc mua
bán hàng hoá. Có hai loại chào hàng chính là chào hàng cố định và chào hàng
tự do. Khi nhận được chào hàng từ phía người bán gửi đến, doanh nghiệp
nhập khẩu sẽ xử lý theo một trong hai cách sau:
Nếu không đồng ý hoàn toàn với chào hàng đó mà đưa ra một đề nghị
mới thì doanh nghiệp gửi cho người chào hàng đề nghị mới này (còn gọi là
hoàn giá). Khi đó, chào hàng trước coi như huỷ bỏ. Trong buôn bán quốc tế,
mỗi lần giao dịch thường trải qua nhiều lần hoàn giá mới đi đến kết quả.
Nếu doanh nghiệp nhập khẩu chấp nhận hoàn toàn mọi điều kiện của
chào hàng thì gửi cho người chào hàng bản chấp nhận chào hàng trong thời
hạn hiệu lực của chào hàng.
• Xác nhận.
Sau khi đã thống nhất thoả thuận với nhau về mọi điều kiện giao dịch,
hai bên tiến hành ghi lại và xác nhận những điều khoản đã được thoả thuận
đó. Về phía người nhập khẩu, công việc xác nhận bao gồm ký vào giấy xác
nhận mua hàng, gửi giấy này cho người bán đồng thời nhận giấy xác nhận bán
hàng do phía bên kia gửi đến.
 Đàm phán.
Đàm phán là một công đoạn quan trọng trong toàn bộ quá trình nhập
khẩu của một doanh nghiệp. Đàm phán có thể diễn ra dưới nhiều hình thức
khác nhau, ngoài hình thức gặp mặt trực tiếp còn có các hình thức khác như
qua thư từ, điện tín, fax hoặc điện thoại Mỗi hình thức đều có những ưu
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét