Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

Tình hình kinh doanh nhập khẩu tại công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ Kim đại hải


SVTH: Huỳnh Ngọc Đoan Trang GVHD: Ths. Cao Minh Trí

5
Các hoạt động đối ngoại khác như bảo hiểm, du lịch, dịch vụ thương mại cũng phát
triển nhanh chóng.
1.1.3.2 Đối với nền kinh tế Việt Nam:
Nước ta là một nước đang phát triển do đó nhập khẩu hàng hoá là một tất
yếu để phục vụ cho quá trình phát triển nền kinh tế, và đẩy nhanh công cuộc công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Như vậy hoạt động nhập khẩu có một vai trò rất
to lớn đối với nền kinh tế Việt Nam:
- Nhập khẩu các thiết bị xây dựng sẽ giúp cho quá trình xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật được rút ngắn thời gian và công sức. Tạo điều kiện phát triển nền kinh
tế với các dây truyền thiết bị hiện đại, thông qua nhập khẩu các thiết bị hiện đại sẽ
làm cho đội ngũ lao động của nước ta nâng cao tay nghề và kiến thức, các nhà quản
lý có điều kiện trao dồi những kiến thức về trình độ và công tác quản lý.
- Nhập khẩu hàng hoá sẽ làm đa dạng các mặt hàng và chủng loại hàng hóa,
người tiêu dùng sẽ lựa chọn được những hàng hoá phù hợp với thu nhập của mình.
Qua đó sẽ góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Thông qua hoạt động
nhập khẩu sẽ bổ xung kịp thời những hàng hoá thiếu hụt trong nước do sản xuất
trong nước không đáp ứng đủ hoặc chưa sản xuất được.
- Nhờ nhập khẩu mà ngành sản xuất trong nước sẽ đào thải được các đơn vị
có năng lực sản xuất yếu kém không có sức cạnh tranh. Thông qua hoạt động nhập
khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp trong nước phải đổi mới cả công nghệ và cách
quản lý để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất ra. Tạo điều kiện cho việc
chiếm lĩnh thị trường trong nước và dần dần tiến tới xuất khẩu.
- Nhập khẩu sẽ tạo cơ hội cho nước ta mở rộng được quan hệ ngoại giao với
các nước khác. Từ đó tranh thủ sự ủng hộ của họ để phát triển kinh tế của mình.
1.1.3.3 Đối với các doanh nghiệp:
Thông qua hoạt động nhập khẩu các doanh nghiệp phải đổi mới cải tiến
công nghệ chất lượng, dịch vụ sản phẩm để tăng sức canh tranh của sản phẩm nội
địa. Qua đó hiệu quả sản xuất được nâng cao, người lao động tìm được việc làm, đời
sống cán bộ công nhân được nâng cao.
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động trên phạm vi quốc tế rất phức tạp vì có
sự giao lưu của nhiều nền kinh tế khác nhau về văn hoá, chính trị, tập quán, ngôn
ngữ…Vì vậy, buộc các doanh nghiệp nhập khẩu phải luôn hoàn thiện và đổi mới

SVTH: Huỳnh Ngọc Đoan Trang GVHD: Ths. Cao Minh Trí

6
công tác quản trị kinh doanh, các cán bộ, các cá nhân luôn phải học hỏi kinh
nghiệm, nâng cao nghiệp vụ… Điều đó làm nâng cao năng lực chuyên môn của các
thành viên trong doanh nghiệp.
Hoạt động nhập khẩu hàng hoá có vai trò làm tăng thế lực và uy tín của
công ty cả ở thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Lợi nhuận do kinh doanh
đem lại cho phép công ty xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mở rộng các lĩnh vực
kinh doanh cả về chiều sâu lẫn chiều rộng, góp phần giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên, góp phần giải quyết
vấn đề bức xúc của xã hội, cải thiện và phát triển mối quan hệ trong kinh doanh.
Hoạt động nhập khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên kết giữa các
chủ thể trong và ngoài nước một cách tự giác, xuất phát từ lợi ích của cả hai bên, tạo
ra sức mạnh chủ thể trong doanh nghiệp một cách thiết thực.
Như vậy nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, nó
tồn tại như là một nhu cầu cần thiết.
1.2 Các hình thức nhập khẩu
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu trực tiếp, nhưng trong thực tế do tác động của điều kiện kinh doanh,
Nhà nước tạo ra nhiều hình thức xuất nhập khẩu khác nhau. Ở đây, ta chỉ xét một
vài hình thức nhập khẩu phổ biến đang được áp dụng tại các doanh nghiệp nước ta
hiện nay.
1.2.1 Nhập khẩu trực tiếp
Khái niệm: Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một
doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong nước
và quốc tế, tính toán chính xác các chi phí, đảm bảo hiệu quả kinh doanh nhập khẩu,
tuân thủ đúng các chính sách, luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế.
Đặc điểm: Trong hình thức nhập khẩu trực tiếp này thì doanh nghiệp phải
đứng mũi chịu sào tất cả. Đây là hoạt động phải được xem xét cẩn thận ngay từ
bước ban đầu là nghiên cứu thông tin cho đến việc ký kết hợp đồng bởi doanh
nghiệp phải tự bỏ vốn của mình chịu mọi phí tổn giao dịch, nghiên cứu thị trường,
giao nhận, lưu kho, chi phí để tiêu thụ hàng hoá, các khoản thuế phải nộp khi doanh
nghiệp tự doanh, doanh nghiệp được trích kim ngạch nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng

SVTH: Huỳnh Ngọc Đoan Trang GVHD: Ths. Cao Minh Trí

7
hoá doanh nghiệp phải chịu thuế doanh thu, thuế mặt hàng. Thông thường, doanh
nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng với bên nước ngoài còn hợp đồng mua bán trong
nước sau khi hàng về sẽ lập sau.
1.2.2 Nhập khẩu uỷ thác
Khái niệm: Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh
nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một loại hàng hoá
nhưng lại không có quyền tham gia quan hệ xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho
một doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập
khẩu theo yêu cầu của mình. (Nói cách khác nhập khẩu uỷ thác là doanh nghiệp
nhập khẩu đóng vai trò trung gian nhập khẩu ).
Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để nhập khẩu
hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác. Thông thường doanh nghiệp nhận uỷ thác
được hưởng một khoản thù lao trị giá 0,5% đến 1,5% tổng giá trị hợp đồng (phí ủy
thác) và phải nộp thuế thu nhập trên nguồn thu này, khi tiến hành nhập khẩu doanh
nghiệp nhận uỷ thác chỉ tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không tính vào doanh
số và nộp thuế giá trị gia tăng.
Đặc điểm: Trong hoạt động nhập khẩu này doanh nghiệp nhận uỷ thác
không phải bỏ vốn, không phải xin hạn nghạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị
trường hàng nhập mà chỉ đứng ra làm đại diện bên uỷ thác để tìm và giao dịch với
bạn hàng nước ngoài, ký kết hợp đồng và làm thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay
bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất.
Khi nhập khẩu uỷ thác thì các doanh nghiệp nhận uỷ thác phải lập 2 hợp
đồng:
- Một hợp đồng ngoại - mua hàng với nước ngòai
- Một hợp đồng nội - uỷ thác nhập khẩu với bên uỷ thác
1.2.3 Nhập khẩu liên doanh
Khái niệm: Là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế
một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp
xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ

SVTH: Huỳnh Ngọc Đoan Trang GVHD: Ths. Cao Minh Trí

8
trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này
phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên lãi cùng chia, lỗ cùng chịu
Đặc điểm: So với nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp bớt chịu rủi ro hơn
bởi vì mỗi doanh nghiệp liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định,
quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng tăng theo vốn góp. Việc phân chia chi
phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp, lãi lỗ tuỳ theo hai bên thoả thuận phân chia
dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên phải gánh vác.
Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được tính
kim ngạch nhập khẩu nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ tính doanh số trên số
hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu thuế doanh thu trên số hàng đó.
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp phải thực hiện 2 hợp đồng:
- Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài
- Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác
Sự phân chia trên là dựa vào chủ thể của hoạt động nhập khẩu, nếu quan tâm đến
hình thức thanh toán trong hoạt động này thì có thể thấy 2 hình thức chính là mua
bán, thanh toán bằng tiền và thanh toán bằng hàng hay còn gọi là mua bán đối lưu.
Mua bán bằng tiền là hình thức thông thường và trong phạm vi ở đây cần quan tâm
đến hình thức nhập khẩu đối lưu hay đổi hàng.
1.2.4 Nhập khẩu đối lưu
Khái niệm: Nhập khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là 2 loại nghiệp vụ
chủ yếu của buôn bán đối lưu, nó là một hình thức nhập khẩu gắn với xuất khẩu,
thanh toán trong hợp đồng này không phải dùng tiền mà dùng chính bằn hàng hoá.
Ở đây mục đích của nhập khẩu hàng không chỉ để thu lãi từ hoạt động nhập khẩu
mà còn nhằm để xuất được hàng thu cả lãi từ hoạt động xuất.
Đặc điểm: Hoạt động này rất có lợi bởi cùng một hợp đồng mà có thể tiến
hành cùng một lúc hoạt động xuất và nhập, do đó có thể thu lãi từ 2 hoạt động.
- Hàng xuất và hàng nhập tương đương về giá trị, tính quý hiếm cân bằng về
giá. Bạn hàng bán cũng chính là bạn hàng mua.

SVTH: Huỳnh Ngọc Đoan Trang GVHD: Ths. Cao Minh Trí

9
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính của kim ngạch nhập
khẩu và kim ngạch xuất khẩu, doanh số trên cả hàng nhập và hàng xuất.
Ngoài ra chia theo mục đích hàng nhập khẩu có thể phân ra nhập hàng tiêu
thụ trong nước và nhập hàng để tái xuất. Ở nước ta hiện nay chủ yếu là nhập về tiêu
dùng trong nước, nhập tái xuất ít, chưa ở mức độ cao thế nhưng trong tương lai sẽ
phát triển thông dụng.
1.2.5 Nhập khẩu tái xuất
Khái niệm: Là hoạt động nhập hàng vào trong nước nhưng không phải để
tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước nào đó nhằm thu lợi nhuận, những
hàng nhập này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Như vậy, nhập khẩu tái
xuất luôn thu hút 3 nước tham gia: nước xuất khẩu , nước tái xuất và nước nhập
khẩu.
Đặc điểm: Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập 2 hợp đồng:
- Một hợp đồng nhập khẩu
- Một hợp đồng xuất khẩu
Doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toán chi phí ghép mối bạn hàng xuất
và nhập sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt
động.
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch xuất và nhập,
doanh số tính trên giá trị hàng xuất do đó phải chịu thuế doanh thu.
Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể chuyển
thẳng sang nước thứ 3, nhưng trả tiền thì phải luôn do người tái xuất thu từ người
nhập khẩu và trả cho người xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu được lợi tức
về tiền hàng do thu được nhanh và trả chậm.
! Trên đây ta xét một số hình thức nhập khẩu cơ bản. Trong đó nhập khẩu
trực tiếp là hoạt động phổ biến nhất và tồn tại lâu đời nhất. Trải qua nhiều biến đổi
của xã hội hoạt động nhập khẩu có nhiều hình thức được sáng tạo ra nhằm đáp ứng
nhu cầu thay đổi đó. Việc áp dụng hình thức nào là tuỳ thuộc và điều kiện và trình
độ cũng như năng lực của mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia. Đứng trước thực trạng

SVTH: Huỳnh Ngọc Đoan Trang GVHD: Ths. Cao Minh Trí

10
đó mỗi quốc gia mỗi tổ chức quốc tế đều đưa ra quan điểm của mình. Bởi đây là
một vấn đề nhạy cảm liên quan đến thương mại của mỗi quốc gia, cho nên không
phải quốc gia nào cũng có được quan điểm rõ ràng nhất quán. Nhìn chung vấn đề
nhập khẩu được giải quyết hết sức linh hoạt ở các nước khác nhau.
1.3 Nội dung chủ yếu của hoạt động nhập khẩu hàng hóa
Hoạt động nhập khẩu có những nhiệm vụ phức tạp hơn nhiều so với hoạt động
kinh doanh nội địa do có sự khác biệt về chủ thể và khoảng cách địa lý. Vì vậy, để
thực hiện hoạt động nhập khẩu có hiệu quả thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần xác
định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc phải làm. Mỗi bước, mỗi nghiệp
vụ phải được nghiên cứu, thực hiện đầy đủ, kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ lẫn
nhau, tranh thủ nắm bắt lợi thế nhằm đảm bảo cho hoạt động đạt hiệu quả cao nhất,
phục vụ đầy đủ, kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
1.3.1 Nghiên cứu thị trường
Thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản
xuất hàng hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó xuất hiện khái niệm
về thị trường. Nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên, rất cần thiết đối với bất
kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, không loại trừ doanh nghiệp kinh doanh
xuất nhập khẩu. Nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu gồm các công đoạn sau:
1.3.1.1 Nhận biết sản phẩm nhập khẩu
Mục đích của việc nhận biết sản phẩm nhập khẩu là lựa chọn được mặt
hàng kinh doanh có lợi nhất. Muốn vậy, doanh nghiệp phải trả lời được các câu hỏi
sau:
- Thị trường trong nước đang cần những mặt hàng gì? Các doanh nghiệp
cần xác định được mặt hàng cùng với nhãn hiệu, mẫu mã, phẩm chất, giá cả và số
lượng hàng hoá đó.
- Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó trong nước ra sao? Mỗi loại mặt hàng đều
có thói quen tiêu dùng riêng, điều đó thể hiện ở thời gian tiêu dùng, thị hiếu và quy
luật biến đổi của quan hệ cung cầu về mặt hàng đó trên thị trường.

SVTH: Huỳnh Ngọc Đoan Trang GVHD: Ths. Cao Minh Trí

11
- Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Bất cứ một sản phẩm
nào cũng đều có chu kỳ sống riêng. Nắm được mặt hàng mà doanh nghiệp dự tính
kinh doanh đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống sẽ xác định được các biện pháp
cần thiết để nâng cao doanh số bán hàng và thu được nhiều lợi nhuận.
- Tình hình sản xuất của mặt hàng đó trong nước như thế nào? Muốn kinh
doanh có hiệu quả thì bất kể doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm đến quan hệ
cung cầu về mặt hàng kinh doanh. Vấn đề mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu cần xem xét ở đây là: khả năng sản xuất, thời vụ sản xuất, tốc độ phát
triển của mặt hàng đó trong nước. Việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu không chỉ dựa
vào những tính toán, ước tính và những biểu hiện cụ thể của hàng hoá mà còn dựa
vào kinh nghiệm của người nghiên cứu thị trường để dự đoán các xu hướng biến
động của giá cả thị trường trong và ngoài nước, khả năng thương lượng để đạt tới
điều kiện mua bán ưu thế hơn.
1.3.1.2 Nghiên cứu dung lượng thị trường
Đối với người nhập khẩu, việc tìm hiểu dung lượng thị trường hàng hoá cần
nhập là rất quan trọng. Có thể hiểu dung lượng thị trường của một hàng hoá là một
khối hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định (thế giới, khu
vực, quốc gia) trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Nghiên cứu dung
lượng thị trường cần xác định nhu cầu thật của khách hàng, kể cả lượng dự trữ, xu
hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm, các khu vực trên từng lĩnh vực
sản xuất và tiêu dùng. Cùng với việc xác định nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả
năng cung cấp của thị trường, bao gồm việc xem xét đặc điểm, tính chất, khả năng
sản xuất hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán.
Dung lượng thị trường là không cố định, nó thay đổi tuỳ theo diễn biến của
tình hình tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định.
1.3.1.3 Nghiên cứu giá cả trên thị trường quốc tế.
Trên thị trường thế giới, giá cả chẳng những phản ánh mà còn điều tiết mối
quan hệ cung cầu hàng hoá. Việc xác định đúng đắn giá hàng hoá trong nhập khẩu
có một ý nghĩa rất lớn đối với hiệu quả thương mại quốc tế.

SVTH: Huỳnh Ngọc Đoan Trang GVHD: Ths. Cao Minh Trí

12
Giá cả trong hoạt động nhập khẩu là giá cả quốc tế. Giá quốc tế có tính chất
đại diện đối với một loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới. Giá cả đó phải
là giá cả giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt
nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi được. Dự đoán xu hướng biến
động của giá cả và các nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng ấy. Xu hướng biến động
của giá cả hàng hoá trên thế giới rất phức tạp, có lúc theo chiều hướng tăng, có lúc
theo chiều hướng giảm, có biệt có những lúc giá cả hàng hoá có xu hướng ổn định
nhưng xu hướng này chỉ là tạm thời. Để có thể dự đoán được xu hướng biến động
trên thị trường thế giới trước hết phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dự đoán về
tình hình thị trường loại hàng hoá đó, đánh giá đúng ảnh hưởng của nhân tố tác
động đến xu hướng vận động của giá cả hàng hoá.
Các nhân tố tác động đến giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới có rất
nhiều và có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau. Khi dự đoán xu hướng biến
động của giá cả trong thời gian dài cần phân tích đánh giá ảnh hưởng của các nhân
tố tác động lâu dài như: chu kỳ, giá trị khi dự đoán xu hướng biến động của giá cả
trong thời gian ngắn cần phân tích đánh giá ảnh hưởng trực tiếp của những biến đổi
về cung cầu và các nhân tố mang tính tạm thời như: thời vụ, nhân tố tự nhiên.
1.3.2 Lập phương án kinh doanh
Dựa trên cơ sở nghiên cứu thị trường sau đó tiến hành lập phương án kinh
doanh hàng nhập khẩu. Phương án kinh doanh là một kế hoạch hành động cụ thể
của một giao dịch mua bán hàng hoá hoặc dịch vụ. Phương án kinh doanh là cơ sở
cho các cán bộ nghiệp vụ thực hiện các nhiệm vụ, phân chia mục tiêu lớn thành các
mục tiêu nhỏ cụ thể để lãnh đạo doanh nghiệp quản lý và điều hành liên tục, chặt
chẽ.
Lập phương án kinh doanh bao gồm các bước chủ yếu sau:
1.3.2.1 Nhận định tổng quát về tình hình diễn biến thị trường
Phân tích đánh giá tình hình thị trường và nhà cung ứng nước ngoài. Mục
tiêu của bước này là thông qua so sánh nhiều thị trường nhà cung ứng để chọn ra
một số nhà cung ứng hấp dẫn đối với doanh nghiệp. Trước hết để tiết kiệm thời gian
và chi phí cần giới hạn việc đánh giá bằng cách loại bỏ ngay một số thị trường hiển

SVTH: Huỳnh Ngọc Đoan Trang GVHD: Ths. Cao Minh Trí

13
nhân là không hấp dẫn đối với doanh nghiệp vì nhiều nguyên nhân thuộc về bản
thân sản phẩm cũng là tiêu chuẩn loại bỏ ngay một số thị trường cung ứng.
Sau khi loại bỏ những thị trường cung ứng hoàn toàn không có triển vọng,
các nhà cung ứng còn lại được đánh giá một cách khái quát theo những khía cạnh
sau:
* Môi trường chính trị
* Môi trường kinh tế - môi trường văn hoá
* Môi trường cạnh tranh
1.3.2.2 Đánh giá khả năng của doanh nghiệp
Đứng trước đối thủ cạnh tranh doanh nghiệp cần thiết lập được bản đánh giá
tương đối về điểm mạnh và điểm yếu của mình. Một mặt doanh nghiệp có năng lực
nào vượt trội, tình trạng hiện tại hoặc tiềm năng của doanh nghiệp như thế nào,
nguồn lực mà doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh có thể huy động từ bản thân hoặc
từ nguồn nào khác bên ngoài doanh nghiệp.
1.3.2.3 Xác định thị trường, mặt hàng và số lượng nhập khẩu
Sau khi phân tích khả năng nhà cung ứng và khả năng doanh nghiệp bước
tiếp theo là lựa chọn mặt hàng nhập khẩu phù hợp với điều kiện kinh doanh. Mặt
hàng này phải đảm bảo đáp ứng được yêu cầu đề ra mà hai bên thoả thuận: giá cả,
chất lượng, bao bì đóng gói…
Xác định đối tượng giao dịch để nhập khẩu gồm:
* Địa điểm và thời gian giao dịch
* Tên công ty đại diện giao dịch
* Khối lượng và giá cả giao dịch
* Hình thức giao hàng và phương thức thanh toán
1.3.2.4 Xác định thị trường và khách hàng tiêu thụ
Thị trường là tổng thể luôn gồm một số lượng rất lớn các khách hàng với
những nhu cầu đặc tính mua và khả năng tài chính rất khác nhau vì vậy doanh
nghiệp cần xác định đoạn thị trường để tiêu thụ sản phẩm sao cho có hiệu quả nhất
cần chú ý các điểm sau:
* Khách hàng mà doanh nghiệp nhằm vào phải rõ ràng cụ thể.
* Phải đo lường được có nghĩa là quy mô và hiệu quả của thị trường phải
đo lường được tính khả thi.

SVTH: Huỳnh Ngọc Đoan Trang GVHD: Ths. Cao Minh Trí

14
* Doanh nghiệp phải nhận biết và phục vụ đoạn thị trường đã phân chia
theo tiêu thức nhất định.
1.3.2.5 Xác định giá cả mua bán trong nước
Giá cả hàng hoá nhập khẩu do hai bên tự thoả thuận. Nhưng bên nhập khẩu phải
căn cứ vào các yếu tố sau đây để đưa ra mức giá tối thiểu nhằm tối đa hoá lợi ích:
* Phân tích giá hàng hoá cùng chủng loại trên thị trường trong nước và
quốc tế tại thời điểm hiện tại hoặc giá cả có thể tham khảo của đối thủ cạnh tranh đã
nhập về.
* Giá phải đảm bảo được mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra như: mục tiêu
lợi nhuận đạt được sau khi trừ các khoản chi phí, thuế…
1.3.2.6 Đánh giá hiệu quả và khắc phục những hạn chế làm giảm hiệu
quả kinh doanh
Hàng hoá nhập về kinh doanh trên thị trường kết quả thu được có thể lỗ
hoặc lãi do có nhiều yếu tố phát sinh trong quá trình kinh doanh. Sau khi tiêu thụ
hàng hoá cuối kỳ cần tổng kết đánh giá hiệu quả kinh doanh, tìm ra những nguyên
nhân ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp để đề ra các biện pháp
khắc phục.
1.3.3 Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng
1.3.3.1 Giao dịch: Sau giai đoạn nghiên cứu thị trường, lựa chọn được
khách hàng, mặt hàng kinh doanh, lập phương án kinh doanh, bước tiếp theo là
doanh nghiệp cần phải tiến hành tiếp cận với đối tác bạn hàng để tiến hành giao dịch
mua bán. Quá trình giao dịch là quá trình trao đổi thông tin về các điều kiện thương
mại giữa các bên tham gia. Giao dịch bao gồm các bước: Hỏi giá, chào hàng (phát
giá), đặt hàng, hoàn giá, chấp nhận- xác nhận.
1.3.3.2 Đàm phán: Là việc bàn bạc, trao đổi với nhau các điều kiện mua
bán giữa các nhà doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến thống nhất ký kết hợp
đồng. Đàm phán thường có các hình thức: Đàm phán qua thư tín, đàm phán qua điện
thoại, đàm phán bằng cách gặp trực tiếp.
1.3.3.3 Ký kết hợp đồng: Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên, bên bán
(người xuất khẩu) có nhiệm vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên
mua (người nhập khẩu), bên mua có nhiệm vụ thanh toán toàn bộ số tiền theo hợp
đồng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét