5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http: / /ww w .lr c - t n u.e d u. v n
ở những quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật phát triển cao như Mỹ,
quá trình dạy học trẻ tài năng được thiết kế thành một chương trình hoàn
chỉnh, thống nhất và mang lại hiệu quả cao. Những thập niên qua với sự phát
triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực đã chứng minh cho sự đúng đắn của các
chính sách phát triển tài năng trẻ của nước Mỹ. Quốc gia này đang sở hữu một
nguồn lực nhân tài vào bậc nhất trên thế giới mà bất cứ quốc gia nào cũng
mong muốn có được.
Kết quả các công trình nghiên cứu khoa học cho thấy, để có được đội
ngũ tinh túy này, nước Mỹ đã có những chính sách đầu tư hợp lý để phát triển
giáo dục - đào tạo. Quá trình dạy học trẻ em tài năng được tổ chức một cách
khoa học dựa trên các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ.
Mỗi quốc gia đều tiềm ẩn những tài năng trẻ đầy triển vọng, vấn đề cơ
bản là cần biết phát hiện và kịp thời bồi dưỡng, tạo điều kiện cho những tài
năng này phát triển. Trong rất nhiều những cuộc thi quốc tế về các lĩnh vực
như Ôlimpic Toán học, hóa học, sinh học, vật lý, những cuộc thi sáng tạo
Rôbôcon… chúng ta luôn giành được những huy chương cao quý. Điều đó
cho thấy Việt nam là một trong những quốc gia có tiềm lực trí tuệ to lớn. Tuy
nhiên chúng ta chưa phát huy được tối đa sức mạnh nguồn lực này để phục
vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến
sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục trẻ em tài năng
nói riêng. Phát hiện, bồi dưỡng nhân tài là một trong các nhiệm vụ trọng tâm
của giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.( Luật giáo dục 2005)
Quá trình dạy học hướng tới việc tìm kiếm và phát hiện tài năng phải bắt
đầu từ khi trẻ còn nhỏ, ở những cấp học đầu tiên. Lứa tuổi tiểu học là thời kỳ
trẻ bộc lộ rõ nhất những tư chất của mình, do đó để tiến hành dạy học có hiệu
quả nhà giáo dục phải đặc biệt chú trọng giai đoạn này.
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http: / /ww w .lr c - t n u.e d u. v n
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy, hiện nay ở nước ta quá trình
dạy học trẻ em tài năng chưa thực sự đạt hiệu quả cao, thực trạng này là do
nhiều nguyên nhân mang lại: Điều kiện cơ sở vật chất, lý luận và phương
pháp dạy học dành cho trẻ em tài năng còn thiếu, các công trình nghiên cứu
khoa học về giáo dục trẻ em tài năng còn hạn chế…
Khắc phục được những khó khăn trên là một công việc khó khăn và phức
tạp đòi hỏi phải có sự nghiên cứu và đầu tư thỏa đáng về nhiều mặt. Một
trong những biện pháp tích cực đó là học tập có chọn lọc những kinh nghiệm
dạy học của các quốc gia phát triển trên thế giới đặc biệt là những quốc gia đã
thành công trong lĩnh vực này.
Để góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình của quá trình giáo dục trẻ
tài năng nói chung và bậc tiểu học nói riêng ở nước ta dựa trên cơ sở đã học
tập kinh nghiệm của những quốc gia đã thành công về lĩnh vực này như Mỹ,
chúng tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: “Đặc điểm quá trình dạy học trẻ
em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ và xu hướng vận dụng vào
Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của
quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ, trên cơ sở
đó đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học trẻ em tài năng ở
Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở
Mỹ.
4. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học học sinh trong nhà trường tiểu học ở Mỹ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http: / /ww w .lr c - t n u.e d u. v n
- Nghiên cứu khái niệm tài năng.
- Nghiên cứu các phương pháp chuẩn đoán, tìm kiếm và phát hiện trẻ
tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ.
- Tìm hiểu những quan điểm định hướng dạy học trẻ em tài năng trong
nhà trường tiểu học của Mỹ.
- Nghiên cứu đặc điểm, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ.
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học trẻ em tài
năng bậc tiểu học ở Việt Nam.
6. Cơ sở phương pháp luận của đề tài
Đ
ề tài nghiên
cứu d
ựa trên quan
đ
iểm
h
ệ
thống
và quan
đ
iểm
lịch s
ử –
lôgic.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài có sử dụng các phương pháp:
Phương pháp phân tích.
Phương pháp tổng hợp.
Phương pháp hệ thống hóa.
Phương pháp so sánh.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm…
8. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà
trường tiểu học ở Mỹ.
9. Cấu trúc của đề tài
Bao gồm:
Phần mở đầu.
Phần nội dung: Chương I + Chương II
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http: / /ww w .lr c - t n u.e d u. v n
CHƯƠNG
I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM KIẾM, P
HÁT
HIỆN VÀ DẠY HỌC TRẺ EM TÀI NĂNG TRONG NHÀ T
RƯỜNG
TIỂU HỌC Ở
MỸ
1. Một số quan niệm về tài năng và trẻ em tài năng
1.1. Khái niệm về tài năng
Lịch sử phát triển nhân loại cho thấy, thời nào cũng có người tài và
người tài thời nào cũng có vai trò to lớn trong những bước phát triển nhất
định của xã hội mà họ sống. Vì thế từ thời cổ xưa, xã hội đã có những cách
thức nhận dạng và đào tạo tài năng để phục vụ cho lợi ích và sự phát triển của
xã hội đó. Ngày nay các quốc gia, các dân tộc đang bước vào thế kỷ XXI với
sự phát triển nhanh chóng tất cả các mặt khoa hoc - kỹ thuật và kinh tế - xã
hội. Thế giới đang trong tình hình mà cơ chế thị trường đang trở nên phổ biến.
Năng suất, chất lượng của lao động con người đang trở thành sức mạnh quan
trọng của con người trong xã hội. Việc tìm kiếm tích cực những thanh thiếu
niên có năng khiếu cao và đào tạo họ trở thành tài năng phục vụ cho sự phát
triển của quốc gia hiện đang là quốc sách của các nước phát triển cũng như
các nước đang phát triển trên toàn cầu.
1.1.1. Năng lực
*Năng lực: Mọi trẻ sơ sinh bình thường đã có tư chất khác nhau, đó là
tất cả những tiềm năng phát triển bẩm sinh được di truyền từ cha mẹ, trong
đó, trước hết là những đặc tính cá thể về sinh lý giải phẫu của hệ thần
kinh,của não bộ. Chính các tư chất bẩm sinh di truyền này là cơ sở của những
năng lực ban đầu của con người gọi là năng lực tự nhiên. Năng lực tự nhiên là
loại năng lực được nảy sinh trên cơ sở những tư chất bẩm sinh di truyền,
không cần đến các tác động giáo dục đào tạo. Nó cho phép con người giải
quyết được những yêu cầu tối thiểu, quen thuộc đặt ra cho mình trong cuộc
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http: / /ww w .lr c - t n u.e d u. v n
sống. Do sự khác biệt về tư chất nên các em khác nhau về năng lực tự nhiên.
Nhưng sự khác nhau đó không lớn đến mức quyết định hoàn toàn sự khác
nhau về năng lực của con người trong suốt cuộc đời.
Sự đáp ứng yêu cầu của các năng lực tự nhiên là rất hạn hẹp, trong khi cuộc
sống phát triển không ngừng luôn đặt ra những yêu cầu mới cần giải quyết.
Chính yêu cầu đó trong cuộc sống đã dẫn đến sự hình thành những năng lực
loại mới ở con người bằng con đường giáo dục đào tạo. Những năng lực được
đào tạo này là loại năng lực được hình thành trên nền tảng của năng lực tự
nhiên nhưng là một bậc phát triển cao hơn so với năng lực tự nhiên. Các tài
liệu khoa học hiện nay khẳng định rằng, năng lực được đào tạo (hay năng lực
tự tạo) là những phẩm chất của quá trình hoạt động tâm lý tương đối ổn định
và khái quát của con người, nhờ nó chúng ta giải quyết được (ở mức độ này
hay mức độ khác) một hoặc một vài yêu cầu mới nào đó trong cuộc sống. (T1).
Năng lực tự tạo chỉ nảy sinh và quan sát được trong hoạt động giải
quyết những yêu cầu mới mẻ và do đó nó gắn liền với tính sáng tạo. Khi đã
được hình thành ổn định, các năng lực tự tạo thường đi vào hệ thống các năng
lực tự nhiên. Còn các năng lực tự nhiên lại báo trước trong chừng mực nào đó
về năng lực tự tạo của con người khi họ giải quyết những yêu cầu
thuộc
loại
mới.
Năng lực con người ( tự nhiên và tự tạo) là hệ thống tiền đề bên
trong và bên ngoài của thành tích hoạt động giải quyết những yêu cầu mới
mẻ và xác định của con người. Năng lực của con người thường được phân
ra thành các năng lực chung và năng lực chuyên biệt.(T1)
Năng lực (tự nhiên và tự tạo) biểu lộ ở tính nhanh, tính dễ dàng, chất
lượng tiếp nhận và thực hiện hoạt động, ở bề rộng của sự di chuyển, tính mới
mẻ, tính độc đáo của hoạt động giải quyết những yêu cầu mới.
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http: / /ww w .lr c - t n u.e d u. v n
1.1.2. Năng khiếu
*Năng khiếu: Chúng ta đã đề cập đến các thuật ngữ Tư chất, Năng lực,
trong ngôn ngữ thường nhật hay trong các tài liệu khoa học cũng như trong
hoạt động giáo dục đào tạo chúng ta thường gặp thuật ngữ “năng khiếu”.
Nhiều tài liệu khoa học cho thấy: tuy giữa chúng còn nhiều điểm khác biệt,
các nhà tài năng học đều có quan niệm chung rằng:
Năng khiếu đó là hệ thống tiền đề bên trong dựa trên những tư chất
bẩm sinh di truyền cho phép con người giải quyết được một hay vài yêu cầu
nhất định nào đó trong cuộc sống mặc dù chưa được đào tạo.( T1)
Như vậy năng khiếu là một dạng năng lực tự nhiên của con người. Mọi
người bình thường đều có năng khiếu nhất định. Năng khiếu có cơ sở là các tư
chất, nhưng tư chất là cái có tính đa dạng, đa hướng và tồn tại ở con người
ngay khi lọt lòng mẹ, còn năng khiếu chỉ bộc lộ sau này trong những hoạt
động giải quyết những yêu cầu nhất định. Năng khiếu không đa dạng, đa
hướng như tư chất mà thường là năng khiếu trong một lĩnh vực hoạt động cụ
thể nào đó như năng khiếu tổ chức quản lý, năng khiếu kinh doanh đây thuộc
loại năng khiếu chung và các năng khiếu chuyên biệt như năng khiếu âm
nhạc, năng khiếu hội hoạ
Sự khác biệt trong năng khiếu cá nhân phụ thuộc vào các thuộc tính thần
kinh cao cấp như cường độ, tính linh hoạt, độ nhạy cảm của qúa trình thần
kinh và do đó nó phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của các quá trình tâm lý.
1.1.3. Giỏi
*Giỏi: Thuật ngữ này thường xuyên trong cuộc sống chúng ta bắt gặp.
"Giỏi" là thuật ngữ dùng để chỉ mức độ cao của năng lực, chỉ sự lành nghề, sự
thành thạo một hoạt động với những kỹ xảo tinh tế hoàn hảo hay sự uyên
thâm kinh nghiệm đến mức điêu luyện trong hoạt động đó. "Giỏi" là cái do
con người tạo ra cho mình chứ không phải do trời phú. Trong kỹ thuật, nghệ
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http: / /ww w .lr c - t n u.e d u. v n
thuật, nghề thủ công thì khái niệm "giỏi" được hiểu như khái niệm "tài
năng". Theo các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về tài năng thì để đào tạo
một chuyên gia (người giỏi trong một lĩnh vực) ở bất cứ lĩnh vực nào, nghề
nào cũng cần đến một khoảng thời gian tối thiểu là khoảng trên dưới 10 năm.
Những học sinh có năng khiếu cao về một lĩnh vực nào đó thì dễ dàng
thành giỏi trong lĩnh vực ấy hơn. Tuy nhiên có thể không có năng khiếu cao
đặc biệt nhưng nếu luyện tập chăm chỉ với lòng say mê cao độ và trong những
điều kiện thuận lợi vẫn có thể trở nên giỏi ở một lĩnh vực, ví dụ như giỏi
ngoại ngữ, giỏi lịch sử, giỏi ngoại giao
Thời gian khoảng 10 năm cũng là thời gian đủ để đào tạo một chuyên
gia trong khoa học công nghệ. ở Cộng hoà liên bang Đức nhà nước đặt ra học
vị Juniorprofessor để phong cho những nhà khoa học giỏi trẻ tuổi. Họ là
những cử nhân khoa học loại ưu, được làm thẳng tiến sỹ, đã bảo vệ luận án
chuyên ngành loại xuất sắc. Các Juniorprofesser được giao đứng đầu một
nhóm các nhà khoa học chuyên ngành mới hiện đại. Như vậy họ không chỉ
được phong chức danh khoa học mà quan trọng hơn là các nhà khoa học trẻ
giỏi ở nước Đức trong thực tế đã được công nhận là chuyên gia, là người giỏi
một chuyên ngành hay một tài năng khoa học công nghệ. Tuổi đời của họ
thường khoảng trên dưới 30. Cũng vào độ tuổi này ở nước ta hiện nay đã một
số người có bằng tiến sỹ chuyên ngành được đào tạo trong nước. Bao nhiêu
phần trăm số tiến sỹ trẻ này thực sự là chuyên gia trong một ngành khoa học
công nghệ?( T1+T2)
1.1.4. Thiên tài
*Thiên tài: Thuật ngữ thiên tài chỉ mức độ cực cao của năng lực, cho
phép con người đạt được những thành tựu vô song trong lịch sử. Khác với
tài năng, thiên tài dẫn đến những giá trị mới hoàn toàn trên bình diện toàn
nhân loại, mở ra thời kỳ mới, một bậc mới của sự phát triển trong một hoặc
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http: / /ww w .lr c - t n u.e d u. v n
nhiều lĩnh vực nào đó của loài người, tựa như một mốc son đánh dấu một
bậc phát triển mới cao hơn của xã hội con người.( T1)
Nguồn gốc của thiên tài là một bí ẩn lớn đối với khoa học. Trong quan
niệm dân gian và trong tài năng học thế kỷ XX vừa qua, thiên tài luôn được
gắn liền với những điều bí ẩn, bất thường, khó làm sáng tỏ.
Do tính chất bí ẩn của thiên tài nên các nhà tài năng học ở các nước ít
đề cập đến thuật ngữ thiên tài. Chẳng hạn nhà tài năng học hàng đầu của Mỹ
Terman đã dùng thuật ngữ trí tuệ cao thay cho thuật ngữ thiên tài.Theo các
nhà tài năng học, xã hội không thể chủ động nhận dạng trước về thiên tài và
cũng không thể chủ động đào tạo ra các thiên tài. Do vậy tài năng học hiện đại
không đề cập đến việc đào tạo thiên tài.
Như vậy rõ ràng là các thuật ngữ tài năng học như: học sinh tài năng,
sinh viên tài năng, học sinh giỏi, sinh viên giỏi là thích hợp nhất trong công
tác nhận dạng, tuyển chọn, đào tạo tài năng ở các trường phổ thông và đại
học, bởi vì tài năng ở học sinh chính là tài năng học tập và học sinh giỏi được
gọi là học sinh tài năng. Mặc dù vậy, hiện nay hầu hết các trường đào tạo tài
năng ở bậc phổ thông nước ta vẫn gọi học sinh của họ là " học sinh năng
khiếu” và đặt tên trường của họ là “Trung học phổ thông năng khiếu hoặc
trung học phổ thông chuyên".
1.1.5. Tài năng
Chúng ta đều biết có nhiều hiện tượng trong khoa học nhân văn được
định nghĩa ít nhiều khác nhau. "Tài năng" cũng là một hiện tượng như vậy.
Thật ra việc thoả thuận giữa các nhà nghiên cứu về khái niệm tài năng về cơ
bản luôn bị quy định bởi nền văn hoá, bởi các giá trị và thái độ xã hội cũng
như cơ cấu xã hội hoá. Tuy nhiên lịch sử phát triển khoa học cho thấy, có
những hiện tượng chưa có định nghĩa một cách khái quát, chính xác và chưa
được mọi người thừa nhận vẫn được các nhà khoa học nghiên cứu và ứng
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http: / /ww w .lr c - t n u.e d u. v n
dụng. Vậy tài năng được hiểu ra sao? Đây còn là một câu hỏi mà sau hàng
trăm năm nghiên cứu, tâm lý học vẫn chưa đưa ra được câu trả lời khái quát
và thống nhất chung một cách tuyệt đối.
1.1.5.1. Những định nghĩa tài năng phiến diện (T1)
Thực chất của việc định nghĩa tài năng cũng chính là việc cắt nghĩa về
bản chất và nguồn gốc của tài năng. Điều này đồng thời cũng là cơ sở để nhận
dạng và đào tạo tài năng. Từ việc nghiên cứu, phân tích trên 130 định nghĩa
khác nhau về tài năng được đưa ra trong vòng 100 năm qua, các nhà khoa học
đã phân định những định nghĩa ấy thành các loại điển hình sau:
- Định nghĩa dựa vào các yếu tố đã bộc lộ: Đây là định nghĩa dựa vào
các yếu tố đã bộc lộ ra bên ngoài. Theo cách định nghĩa này, một người nào
đó được coi là tài năng khi anh ta đã hoàn thành vượt trội một hoạt động
nhất định. Định nghĩa về người có tài năng kiểu này được vận dụng để lựa
chọn người có tài năng dựa theo những kết quả đã thể hiện ra trong hoạt động
của họ. Cách định nghĩa này không phục vụ cho công tác đào tạo tài năng, mà
phục vụ cho việc xác định và đánh giá tài năng để làm cơ sở cho việc khen
tặng và tôn vinh tài năng.
- Định nghĩa dựa vào chỉ số IQ: Kiểu định nghĩa này được nhà tâm lý
học Mỹ Terman sử dụng với giá trị IQ >= 140 theo Test Standford - Binet,
theo đó "một người được gọi là tài năng khi người đó có hệ số trí tuệ bằng
hay lớn hơn 140 theo test Standford - Binet". Tuy nhiên khi áp dụng định
nghĩa loại này, nhiều nhà tâm lý lại dùng các trắc nghiệm trí tuệ khác và ấn
định giá trị chuẩn khác với Terman, thường là thấp hơn 140 như ở Terman. Ví
dụ, năm 1965, Gowan dùng giá trị chuẩn hạn định là 129 trở lên theo test
Standford - Binet. Webb (1985) lấy giá trị hạn định là 130 Điển hình trong
việc áp dụng kiểu định nghĩa IQ trong định nghĩa tài năng thể hiện rõ nhất ở
định nghĩa tài năng của Bộ giáo dục Anh quốc như sau: " Trẻ em và thanh
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http: / /ww w .lr c - t n u.e d u. v n
niên có năng khiếu cao ở lứa tuổi 8-18 là những em khẳng định được về năng
lực trí tụê chung vượt trội ở trường học, đã chứng tỏ điều đó qua một test trí
tuệ (test thông minh) đã thực hiện tự lập đáng tin cậy với kết quả Iq từ 130 trở
lên, hoặc trong hoạt động giải quyết công việc của mình đã chứng tỏ một trình
độ phát triển vượt trội rõ ràng và giữ vững như vậy trong nhiều năm, hoặc đưa
ra được một tiên lượng tương đối đáng tin cậy về sự vượt trội trong học tập
các môn học hàn lâm hay trong âm nhạc, trong thể thao, trong múa hát, hay
trong lĩnh vực nghệ thuật, đồng thời tài năng của chúng không phải chỉ quy
trước hết vào sự phát triển thể chất" (Vụ Giáo dục và khoa học - 1997).( T1)
- Định nghĩa xã hội: Định nghĩa này dựa trên sự mở rộng quan điểm lý
thuyết về tài năng trong mối liên quan với nhiều lĩnh vực. Quan niệm này nảy
sinh trên cơ sở yêu cầu của xã hội về những thành tích vượt trội. Loại định
nghĩa như vậy được gọi là định nghĩa xã hội.( T1)
Theo cách định nghĩa này, người ta cho rằng "một học sinh, sinh viên
có thành tích cao vượt trội trong một lĩnh vực nào đó mà mọi người có thể
nhận ra được một cách tổng quát thì được gọi là người có tài năng" (Witty -
1965).
- Định nghĩa bách phân: Kiểu định nghĩa này xuất phát từ quan niệm
cho rằng có một số phần trăm nào đó của dân số được coi là có tài năng. Khái
niệm tài năng ở đây gắn liền với những trẻ em có tiềm năng trí tuệ vượt trội
cũng như có năng lực giải quyết nhiệm vụ cao ở trường học, về mặt thành tích
học tập chúng thuộc số 15- 20 % xếp thứ hạng từ trên xuống dưới. Tuy nhiên,
có bao nhiêu phần trăm quần thể được coi là có tài năng thì không có sự thống
nhất giữa các nhà khoa học.(T1)
- Định nghĩa dựa vào tính sáng tạo: định nghĩa này được hình thành
dựa trên cơ sở phê phán, bác bỏ kiểu định nghĩa thuần tuý chỉ dựa vào chỉ số
thông minh IQ và chủ trương đặt tính sáng tạo làm cơ sở tiên quyết cho việc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét