Tạp chí Kiến thức ngày nay, số 619, có bài viết Du ký về vùng văn hóa Sài
Gòn – Nam Bộ của Nguyễn Hữu Sơn, bàn về du ký Phạm Quỳnh qua tác phẩm
Một tháng ở Nam Kỳ.
Cùng năm đó, bộ Du ký Việt Nam, tạp chí Nam Phong (1917 - 1934) gồm 3
tập đã được nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn dày công biên soạn và giới thiệu.
Sau khi bộ Du ký Việt Nam ra đời, đã có hàng loạt các bài viết bàn về thể tài
du ký trên Nam Phong tạp chí.
Báo Doanh nghiệp ra ngày 13.05.2007, có bài viết của Trung Sơn với nhan
đề Viết của sự Đi. Bài viết đã nêu lên một vài đặc điểm nổi bật của du ký trên
Nam Phong tạp chí, đó là điều kiện ra đời, những đặc trưng không gian - thời
gian… trong du ký. Và cuối cùng tác giả nhận định: “Bộ du ký Việt Nam trên
Tạp chí Nam Phong là một kho tư liệu quý, một chứng tích của thời gian”.
Báo Tuổi trẻ ra ngày 23.03.2007, Phạm Xuân Nguyên có bài Đọc sách để
đi chơi. Tác giả Xuân Nguyên cũng đã đưa ra ý kiến đánh giá của mình về du
ký: “Đọc du ký, để hiểu biết, có thêm thông tin tri thức là một lẽ. Đọc những tác
phẩm du ký này còn để hiểu thêm suy nghĩ, cảm xúc của những con người đứng
ở buổi đầu nền văn học hiện đại, muốn truyền tải và gửi gắm tới quốc dân trong
một nước đang tìm cách thoát lạc hậu đến văn minh”.
Báo Văn hóa và Thể thao, ra ngày 27.04.2007, có bài viết Du ký như một
thể tài của tác giả Linh Lê. Trong đó, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn khi trả
lời phỏng vấn của tác giả Linh Lê, đã khẳng định: “Du ký cần quan niệm như là
một thể tài. Thể tài du ký cần phải hiểu là nhấn về phía đề tài, nội dung và cảm
hứng nghệ thuật của người viết chứ không phải về phía thể loại”.
Báo Người đại biểu nhân dân, ra ngày 01.04.2007, tác giả Phong Lê có bài
viết Du ký trên tạp chí Nam Phong.
Báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, ra ngày 10.04.2007, có bài viết Du ký
Việt Nam - một bộ sách quý của Trần Hữu Tá
5
Báo An ninh thủ đô số ra ngày 15.04.2007, tác giả Thiên Lương có bài: Về
bộ sách Du ký Việt Nam - Nam Phong tạp chí, khát vọng chân thành của người
trí thức….
Báo Thể thao và Văn Hóa số 49 ra ngày 21.04.2007, có bài Chuyện đi xứ
người của Nguyễn Vĩnh Nguyên…
Báo Văn hóa số 1355, số ra ngày 30.03.2007, có bài Đọc Du ký Việt Nam:
ngồi một chỗ mà thấy ngoài muôn dặm, của Nguyễn Anh.
Như vậy, có thể nói vấn đề nghiên cứu về du ký trên Nam Phong tạp chí,
nhìn chung còn khá sơ lược. Trước những giá trị và đóng góp của du ký đối với
nền văn học hiện đại Việt Nam, chúng tôi cho rằng cần có nhiều hơn nữa những
nghiên cứu đi sâu tìm hiểu vấn đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Trong văn học trung đại, thể du ký đã xuất hiện với một số tác giả, tác
phẩm, nhưng chỉ sang thế kỷ XX trong giai đoạn văn học giao thời (1900 -
1930), du ký mới thực sự phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong những thể
tài chiếm vị trí trung tâm của đời sống văn học. Mục du ký trên Nam Phong tạp
chí đã phần nào chứng minh cho sự phát triển đó. Tuy nhiên xung quanh vấn đề
du ký nói chung, du ký trên Nam Phong tạp chí nói riêng, nhìn chung chưa có
nhiều công trình nghiên cứu. Nhận thấy đây còn là một vấn đề mới, chúng tôi
muốn đi vào nghiên cứu với mục đích khảo sát du ký trên các phương diện chủ
yếu như: sự ra đời, các giá trị chính về nội dung và nghệ thuật, chỉ hi vọng đem
tới một cái nhìn khái quát về du ký trên Nam Phong tạp chí.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các tác phẩm du ký đăng trên Nam Phong tạp chí (1917 - 1934). Bao gồm
62 tác phẩm của 36 tác giả. Trong đó, chúng tôi lần lượt đi vào nghiên cứu thể
tài du ký dưới góc độ lí luận, các điều kiện ra đời và phát triển của thể loại du ký
trên Nam Phong tạp chí, và những giá trị chính về nội dung và nghệ thuật của du
ký.
6
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp mà chúng tôi sử dụng trong niên luận này là các phương
pháp sau: phương pháp phân tích thể loại. Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng
phương pháp khác như: so sánh, phân tích tổng hợp.
6. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận chia thành 3 phần, ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội
dung cơ bản gồm 3 chương
Chương I: Thể du ký trên Nam Phong tạp chí
Chương II: Du ký trên Nam Phong tạp chí - Bức tranh hiện thực rộng lớn.
Chương III: Những đặc trưng nghệ thuật của thể loại du ký trên Nam
Phong tạp chí
7
NỘI DUNG
Chương I: Thể du ký trên Nam Phong tạp chí (1917 - 1930)
1.1. Tạp chí Nam Phong
Nam Phong tạp chí là một tờ nguyệt san xuất bản tại Việt Nam từ ngày 1
tháng 7 năm 1917 đến tháng 12 năm 1934 thì đình bản, do Phạm Quỳnh làm chủ
bút, dưới sự bảo trợ của ông Louis Marty, trưởng phòng chính tại phủ toàn
quyền Pháp - Hà Nội. Trong suốt 17 năm hoạt động, tạp chí đã đăng 210 số, với
sự góp mặt của nhiều cây bút nổi tiếng như: Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Bá
Học, Nguyễn Đôn Phục, Đông Hồ, Mai Khê, Huỳnh Thị Bảo Hòa, Phục Ba,
Nguyễn Đức Tánh, Nguyễn Thế Xương
Mục đích của Nam Phong là thể hiện chủ nghĩa khai hóa của nhà nước
mới, biên tập những bài bằng quốc văn, Hán văn, Pháp văn, để giúp cho sự mở
mang trí thức, giữ gìn đạo đức, bảo tồn quốc hồn quốc túy trong quốc dân Việt
Nam và truyền bá các môn khoa học Tây phương, nhất là học thuật tư tưởng đại
Pháp, cùng bênh vực quyền lợi người Pháp, và người Nam trong trường kinh tế.
Đặc biệt chú ý tới sự tập luyện, trau dồi văn quốc ngữ, để người Việt sớm có
một nền quốc văn riêng.
Nam Phong tạp chí từ lúc ra đời tới khi đình bản đã trải qua 4 giai đoạn
chính:
Giai đoạn 1917 - 1922: Thời kỳ thành lập và bành trướng của tờ báo
Giai đoạn 1922 - 1925: Thời kỳ đề cao mục đích giáo huấn, khai hóa quốc
dân. Tờ báo phát triển mạnh và truyền ra nước ngoài nhờ ảnh hưởng của Phạm
Quỳnh.
Giai đoạn 1925 - 1932: Đây là giai đoạn hoạt động chính trị mạnh nhất của
tờ báo.
Giai đoạn 1932 - 1934: Giai đoạn suy yếu của báo, quyền chủ bút chuyển
cho Nguyễn Trọng Thuật. Tới tháng 12 năm 1932 thì tạp chí đình bản hẳn.
8
Về nội dung, Nam Phong tạp chí đã đề cập tới rất nhiều vấn đề của đời
sống cũng như văn học, với nhiều chuyên mục khác nhau mà tập trung trong 9
phần sau:
* Phần lược thuật: Bàn chung những vấn đề có liên hệ đến thời thế, nhất là
có những phần liên hệ đến riêng dân ta để cho độc giả trong nước có những
quan niệm minh chính về vấn đề này.
* Phần văn học bình dân: Đề cập những vấn đề về văn chương lịch sử, đại
thể là những môn tổng danh gọi là văn học.
* Phần triết học bình dân: Luận thuyết tư tưởng từ xưa tới nay. So sánh tư
tưởng Âu - Á để giúp cho sự đề xướng một tư trào riêng cho nước ta. Tôn chỉ là
giúp cho quân dân về trí thức và đạo đức.
* Phần khoa học bình dân: Nói tới những vấn đề đại cương, nguyên lí, lịch
sử tiến hành của khoa học.
* Phần văn uyển: Sưu tầm và biên soạn lại những tác phẩm thơ ca chữ Hán,
chữ Nôm và đăng tải những bài thơ mới.
* Phần tạp trở: Đăng những bài ký (du hành, du ký) trình bày các câu
chuyên “mắt thấy tai nghe” dọc đường của một chuyến tham quan, công tác và
những bài tựa, bài giới thiệu sách mới, những danh ngôn, trích lục các sách.
* Phần thời đàm: Gồm các bài bàn về tình hình thế sự trong và ngoài nước.
Những bài viết này thể hiện một thái độ khá bình tĩnh khi trình bày các sự việc
khác nhau, song ý thức ca ngợi Pháp vẫn bộc lộ.
* Phần tiểu thuyết: Dịch các tiểu thuyết cận, hiện đại của Trung Quốc và
Pháp sang quốc văn, và đăng tải những tiểu thuyết mới.
* Phần từ vựng: Gồm 3 phần (chữ quốc ngữ, chữ Nho và chữ Pháp) với
mục đích là giải thích những chữ mới.
Đánh giá về của tạp chí Nam Phong đã có nhiều ý kiến khác nhau. Theo
Dương Quảng Hàm
(1)
, tạp chí Nam Phong đã có ảnh hưởng về hai phương diện:
1
(1): Dương Quảng Hàm - Việt Nam văn học sử yếu - Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn. 1950.
9
- Về đường văn tự, Nam Phong đã sáp nhập vào tiếng Việt nhiều danh từ
triết học, khoa học mới, và luyện cho chữ quốc ngữ có thể diễn dịch được các lý
thuyết, các ý tưởng về triết học, kho học mới.
- Về đường học vấn, Nam Phong đã phổ thông những điều yếu lược của
học thuật Âu - Tây, diễn giải những điều đại cương trong các học thuyết cũ của
Á Đông (Nho học, Phật học) và bảo tồn những điều cốt yếu trong văn hóa Việt
Nam xưa (văn chương, phong tục, lễ nghi).
Như vậy, Nam Phong tạp chí tuy có hạn chế về mặt lịch sử, nhưng những
giá trị mà nó đem lại thì không thể phủ nhận. Cho tới nay, những giá trị ấy vẫn
được công chúng nhìn nhận và đánh giá cao. “Đây là tờ báo gần như duy nhất
trong những năm chuyển tiếp giữa thập kỷ 20 và 30 của thế kỷ này, cung cấp
cho bạn đọc Việt Nam những kiến thức về văn chương, triết học, lịch sử, địa
lý…phương Đông và phương Tây, một cách hệ thống và liên tục. Nam Phong
cũng là nơi thử thách và rèn luyện ngòi bút viết văn xuôi quốc ngữ, văn xuôi
nghệ thuật và cao hơn là văn xuôi lý luận trong bước chuyển mình của văn
xuôi quốc ngữ chúng ta”. (Lại Văn Hùng)
(1)
1.2. Đặc điểm thể du ký
Thể ký ra đời từ rất sớm, là một loại hình trung gian nằm giữa báo chí và
văn học, bao gồm nhiều thể như: bút ký, hồi ký, du ký, phóng sự, ký sự, nhật ký,
tùy bút… Ký cơ bản khác với truyện (truyện dài, truyện ngắn, truyện vừa, tiểu
thuyết) ở chỗ trong tác phẩm ký không có một xung đột thống nhất. Ký cũng
không đi vào miêu tả quá trình hình thành tính cách của các cá nhân trong tương
quan với hoàn cảnh, mà là các vấn đề trạng thái dân sự như kinh tế - văn hóa -
chính trị, và trạng thái tinh thần như phong hóa đạo đức của chính môi trường xã
hội. Khác với Thơ mới, kịch, tiểu thuyết… là những thể loại ra đời và phát triển
do ảnh hưởng mạnh của quá trình tiếp xúc văn học phương Tây, thể ký lại mang
tính nội sinh hết sức rõ rệt. Nó là sự kết hợp giữa cách viết, cách tư duy giữa
truyền thống và hiện đại, giữa Đông và Tây. Bởi lẽ, một trong những đặc trưng
1
(2): Lại Văn Hùng – Truyện ngắn Nam Phong – NXB Khoa học xã hội, H., 1986.
10
lớn nhất của ký là ghi chép, là phản ánh một cách trung thực, chính xác những
con người, những sự kiện có thật trong đời sống, cho nên buộc nó phải lấy
những đề tài, những câu chuyện xảy ra ở chính Việt Nam. Sáng tác văn học
dạng thể ký thường thịnh hành ở các giai đoạn văn học sử ứng với thời kỳ xã hội
có khủng hoảng của các quan hệ cũ, nảy sinh một nếp sống mới, làm tăng cường
chú ý đến sự miêu tả các thói tục.
Tùy từng giai đoạn mà ký phát triển với những hình thức khác nhau. Ở thời
trung đại, ký phát triển với các thể tài: ký sự, tiệp ký, tùy bút, tạp lục. Đó là
những tác phẩm như: Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Vũ Trung tùy bút, Tang
thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ, Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Công
du tiệp ký của Vũ Phương Đề Những tác phẩm ký này thường viết về các sự
kiện, các vấn đề có tính chất lớn lao của quốc gia.
Bước sang thế kỷ XX, ký mới thực sự chiếm được vị trí quan trọng trong
đời sống văn học, nhờ sự ra đời của báo chí, các nhà xuất bản, sự phát triển của
chữ Quốc ngữ và đặc biệt là nhờ điều kiện giao thông thuận lợi. Người có công
đầu trong việc thúc đẩy thể ký phát triển lúc này chính là Tản Đà (1889 - 1939).
Ông là người đã sáng lập ra mục “Việt Nam nhị thập kỷ - xã hội ba đào ký” trên
An Nam tạp chí. Tiếp sau đó, với mục du ký trên Nam Phong tạp chí, Phạm
Quỳnh đã tiếp bước Tản Đà, cho đăng tải rất nhiều tác phẩm du ký: Mười ngày
ở Huế, Pháp du hành trình nhật ký (Phạm Quỳnh), Cuộc đi chơi năm tầng núi
(Tùng Vân), Hương sơn du ký (Minh Phượng), Các nơi cổ tích đất nghệ tĩnh
(Nguyễn Đức Tánh)… những tác phẩm ký thời này được viết bởi nhiều kiểu tác
giả, với lối viết mang tính chất trữ tính, in dấu ấn cá nhân, bởi thế nó cũng đậm
tính văn học hơn.
Sang những năm 1930 - 1945, thể phóng sự phát triển mạnh mẽ với nội
dung viết về các tệ nạn xã hội, tố cáo xã hội thực dân sâu sắc. Các tác phẩm tiêu
biểu như: Việc làng, tập án cái đình của Ngô Tất Tố, Ngõ hẻm ngoại ô của
Nguyễn Đình Lạp, Tôi kéo xe của Tam Lang, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng. Sau
cách mạng tháng Tám, ký lại có một bước chuyển mình mới. Các thể tài tùy bút,
11
nhật ký, bút ký chiếm một vị trí lớn trong đời sống văn học bấy giờ. Những tác
phẩm: Nhật ký ở rừng của Nam Cao, Ký sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng,
Sống như anh của Trần Đình Vân, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Đình Thi,
Đường lớn của Bùi Hiển… đã tái hiện một cách chân thực và sinh động một thời
kỳ lịch sử anh hùng của dân tộc, của thời đại.
Trở lại với vấn đề mà khóa luận đang nghiên cứu, đó là thể du ký. Trong
nền văn học trung đại, du ký đã xuất hiện. Mở đầu là các bài du ký bằng thơ ca
đề vịnh phong cảnh như: Vịnh Văn Yên tự phú của Huyền Quang Lý Đại Táo,
Bài ký Tháp Linh Tế Núi Dục Thúy của Trương Hán Siêu, Tịnh cư ninh thể phú
và Đại đồng phong cảnh phú của Nguyễn Hàng, Thượng kinh ký sự của Lê Hữu
Trác, Nhị Thanh động phú và Tây Hồ phong cảnh phú của Ngô Thì Sĩ. Từ thế kỷ
XIX, các tác phẩm du ký trở nên phong phú hơn với những cuộc hành trình dài,
nội dung những bài du ký không chỉ còn giới hạn về các vấn đề trong đất nước,
mà đã được mở rộng ra nước ngoài. Các tác phẩm tiêu biểu như: Tây hành nhật
ký của Phạm Phú Thứ, Ghi về vương quốc Khơme, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất
Dậu của Trương Vĩnh Ký, Như Tây nhật trình, Chư quốc thạc hội của Trương
Minh Ký… Sang thế kỷ XX, với những tiền đề về lịch sử xã hội cũng như
những tiền đề trong nội hàm văn học, thể du ký đã có điều kiện phát triển mạnh.
Thể du ký phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều giá trị nhất vào ba thập kỷ đầu
của thế kỷ XX.
Du ký là một thể đặc biệt của văn học. Bởi một tác phẩm du ký không đơn
giản chỉ là một tác phẩm văn học mà còn chứa đựng trong nó cả một kho kiến
thức lịch sử, địa lý, giáo dục, chính trị, giáo dục. Du ký có thể là các sáng tác
bằng thơ, phú, tụng hay những bài văn xuôi theo các phong cách ký như: ghi
chép, hồi ký, phóng sự, khảo cứu, hồi ức. Du ký thường là miêu tả những sự mắt
thấy tai nghe của người đi trên một hành trình, nó gần như một dạng nhật ký
hành trình nhưng đậm chất văn học hơn. Bàn về du ký, đã có không ít những ý
kiến, những cách định nghĩa khác nhau. Trong đó Từ điển thuật ngữ văn học
định nghĩa như sau: “Du ký - một thể loại văn học thuộc loại hình ký mà cơ sở
12
là sự ghi chép của bản thân mình đi du lịch, ngoạn cảnh về những điều mắt thấy
tai của chính mình tại những xứ sở xa lạ hay những nơi có ít người đến. Hình
thức của du ký rất đa dạng, có thể là ghi chép, ký sự, nhật ký, thư tín, hồi tưởng,
miễn là mang lại những thông tin, tri thức và cảm xúc mới lạ về phong cảnh,
phong tục, dân tình của xứ sở ít người biết đến (…). Dạng đặc biệt của du ký
phát huy cái chất ghi chép về miền xa lạ của nó là du ký về các xứ sở tưởng
tượng, có tính chất không tưởng hay viễn tưởng khoa học (…). Dạng du ký khác
đậm đà phong vị phương Đông là ghi chép cảm tưởng, nhận xét về những nơi
danh lam thắng cảnh đất nước (…). Thể loại du ký có vai trò quan trọng đối với
văn học thế kỷ XVIII – XIX trong việc mở rộng tầm nhìn và tưởng tượng của
nhà văn. Sang thế kỷ XX, du ký mang nhiều tính chất tư liệu khoa học do các
nhà địa chất, nhà dân tộc học viết. Loại du ký khoa học cũng rất thịnh hành”
[230, 2].
Du ký đầu thế kỷ XX đã phát triển mạnh mẽ và để lại nhiều giá trị nội dung
cũng như những cách tân nghệ thuật độc đáo, cùng với những thể loại văn học
khác, du ký đã góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam.
Trong giới hạn của một khóa luận, chúng tôi chỉ xin đi vào khảo sát thể du
ký trên tạp chí Nam Phong (1917 - 1934), với mục đích đem lại cái nhìn khái
quát về thể du ký trên các khía cạnh: sự ra đời, những giá trị chính về nội dung
và nghệ thuật; qua đó phần nào thấy được sự vận động và phát triển của du ký
nói riêng, thể loại ký nói chung trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân
tộc.
13
1.3. Thể du ký trên Nam Phong tạp chí
1.3.1. Những tiền đề ra đời của thể du ký trên Nam Phong tạp chí
1.3.1.1 Những tiền đề lịch sử - văn hóa
* Đô thị
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đặc biệt là sau Đại chiến Thế giới lần thứ
nhất, thực dân Pháp tiếp tục đẩy mạnh chính sách khai thác thuộc địa ở nước ta,
tạo ra những biến đổi to lớn trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội.
Một trong những hệ quả to lớn của quá trình thực dân hóa chính là việc thúc đẩy
sự phát triển mau chóng của đô thị ở Việt Nam. Trước đó, trong thời đại phong
kiến, dưới tác động của nền kinh tế hàng hóa tuy mới chỉ là manh nha, đô thị
cũng đã sớm xuất hiện với sự ra đời của các phường thợ thủ công, những làng
nghề, những cơ sở thương mại Nhưng phải tới thời kỳ Pháp thuộc đô thị mới
thực sự được “tái sinh” theo dòng chảy hiện đại. Đô thị là nơi tích tụ và phản
ánh những chuyển biến của xã hội Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa, là nơi
cửa ngõ giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và thế giới, là nơi mà những ảnh hưởng
phương Tây được thể hiện rõ nhất. Ở đó, xuất hiện những tầng lớp mới của xã
hội, những viên chức, những trí thức… với lối sống tư sản hóa đang mau chóng
hình thành. Chính những tầng lớp xã hội ấy đã đem đến một luồng gió tinh thần
mới trong đời sống. Những tập tục, thói quen, những trói buộc không còn phù
hợp thậm chí là hà khắc của chế độ phong kiến đã dần bị họ đẩy lui. Thay vào
đó là là những lối sống mới với những trạng huống tâm lý mới mẻ
Đô thị phát triển chính là một trong những tiền đề quan trọng cho quá trình
hiện đại hóa nền văn học nước nhà. Đô thị không chỉ tạo ra những tầng lớp mới
trong xã hội nói chung, mà đối với riêng lĩnh vực văn học nghệ thuật, đô thị đã
“đào tạo” ra một tầng lớp công chúng mới. Họ bao gồm những học sinh, sinh
viên, những trí thức, những người bình dân… Cho dù thành phần và xuất thân
của lớp công chúng mới không giống nhau, nhưng tất cả đều có chung một thị
hiếu, một đòi hỏi với văn học. Văn học của thời đại mới phải thể hiện chân thực
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét