Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

tim hieu CHLB Duc


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "tim hieu CHLB Duc": http://123doc.vn/document/567834-tim-hieu-chlb-duc.htm


nhưng chỉ một phần nhỏ của toàn bộ đoạn đường của sông Donau là chảy qua Đức
(47 km). Sông Donau đổ ra biển Đen.
Tất cả những sông Đức khác chảy ra biển Bắc hay biển Baltic. Đường phân thủy
châu Âu qua nước Đức chạy về phía Đông của vùng đồng bằng thượng lưu sông
Rhein trên chỏm núi chính của vùng Rừng Đen. Trong những sông này sông Rhein
chính là con sông có đoạn đường dài nhất trong nước Đức. Trong số 1.320 km
đường sông có 865 km nằm trong nước Đức. Thêm vào đó sông này còn có một vai
trò tạo cá tính riêng cho người Đức, được kết tụ từ lịch sử và nhiều thần thoại cũng
như truyền thuyết. Chức năng kinh tế của con sông này cũng rất quan trọng: sông
Rhein là một trong những đường thủy có mật độ giao thông nhiều nhất châu Âu.
Sông Elbe bắt nguồn từ Riesengebirge (tiếng Séc: Krkonoše) tại biên giới của Séc
và Ba Lan và đổ ra biển Bắc tại Cuxhaven sau khoản 1.165 km, trong đó là 725 km
nằm trong nước Đức. Đã có thời gian sông này là một trong những sông bị ô nhiễm
chất độc hại nhiều nhất châu Âu, nhưng trong thời gian gần đây chất lượng nước đã
tốt hơn rõ rệt.
Nguồn sông Oder nằm tại Beskiden (tiếng Séc: Beskydy) của Séc. Sau vài ki lô mét
sông Oder chảy sang Ba Lan và trung lưu của nó chạy qua Schlesien (tiếng Ba Lan:
Śląsk, tiếng Séc: Slezsko). Hạ lưu sông này tạo thành biên giới Đức-Ba Lan để rồi
lại đổ vào vùng nước đông Stettin trong lãnh thổ Ba Lan. Qua eo biển Świna dòng
sông này chảy qua giữa các đảo Usedom và Wollin đổ vào biển Baltic.
Các hồ trong nước Đức phần lớn thành hình sau khi thời kỳ Băng hà chấm dứt. Do
vậy mà đa số các hồ lớn nằm trong các vùng đã từng bị băng tuyết bao phủ hay
vùng đất cạnh trước đó, đặc biệt là tại Mecklenburg và Alpenvorland. Hồ lớn nhất
có phần thuộc Đức là Bodensee, hồ cũng là biên giới của Áo và Thụy Sĩ. Hồ lớn
nhất hoàn toàn thuộc về lãnh thổ quốc gia của Đức là Müritz.
[sửa]
Núi và vùng thấp

Ngọn núi Zugspitze
Núi Alpen là dãy núi cao duy nhất mà một phần thuộc về nước Đức.Tại đấy là ngọn
Zugspitze (2.962 m), ngọn núi cao nhất Đức. Vùng núi với độ cao trung bình có
khuynh hướng cao dần và rộng ra từ Bắc xuống Nam. Ngọn núi cao nhất ở đấy là
Feldberg trong vùng Rừng Đen (Schwarzwald) với 1.493 m, kế tiếp là Arber Lớn
(Große Arber) trong Rừng Bayern (Bayerischer Wald) với 1.456 m. Ngoài ra, có các
ngọn núi trên 1.000 m là các vùng Erzgebirge, Fichtelgebirge, Schwäbische Alb và
trường hợp đặc biệt là Harz bị cô lập hẳn như là vùng đồi núi ở về phía Bắc nhiều
nhất trong các vùng đồi núi của nước Đức với ngọn Brocken nhô cao đến 1.142 m.
Về phía bắc của đợt đồi núi này chỉ còn một vài thành hệ địa chất cao hơn 100 m,
trong số đó có Hagelberg trong Fläming với 200 m là ngọn cao nhất.
Địa điểm thấp nhất vẫn còn có thể đi được của Đức nằm dưới mực nước biển 3,54
m trong một vùng trũng gần Neuendorf-Sachsenbande trong Wilstermarsch (bang
Schlewig-Holstein). Cũng nằm trong bang này là điểm thấp nhất với 39,10 m dưới
mực nước biển nằm ở đáy của hồ Hemmelsdorf về phía bắc-đông bắc của Lübeck.
Điểm nhân tạo thấp nhất với 293 m dưới mực nước biển nằm ở đáy của mỏ lộ thiên
Hambach về phía đông của Jülich trong bang Nordrhein-Westfalen.
[sửa]
Đảo

Vách đá vôi trên đảo Rügen
So với chiều dài bờ biển thì Đức có một số lượng đảo đáng kể. Các đảo này trong
biển Bắc phần lớn nằm trong dạng hình chuỗi trước đất liền. Chúng được chia ra
thành các đảo bắc Friesen và đông Friesen, là một phần của bãi bồi Wattenmeer
Đức. Các đảo bắc Friesen của Đức thuộc bang Schleswig-Holstein và bao gồm các
đảo lớn Sylt, Föhr, Amrum và Pellworm cũng như là các đảo Hallig nhỏ hơn rất
nhiều. Từ khi đắp đập Beltringharder Koog thì Nordrand đã trở thành một bán đảo.
Các đảo đông Friesen thuộc bang Niedersachsen có độ lớn tương tự. Các đảo này
hình thành từ những bãi cát bồi do tác động của sóng biển. Lớn nhất trong các đảo
này là Borkum. Một trường hợp ngoại lệ là đảo Helgoland nằm ngoài khơi xa của
biển Bắc.
Các đảo trong biển Baltic nằm gần bờ biển Bodden của Đức có chiều hướng lớn
hơn và có địa hình thay đổi nhiều hơn. Đảo lớn nhất trong các đảo này và đồng thời
cũng là hòn đảo lớn nhất của Đức là Rügen, tiếp theo đó là Usedom mà đầu mũi đảo
về phía đông đã thuộc về Ba Lan. Cũng như các đảo trên biển Bắc, các đảo của biển
Baltic là điểm đến du lịch được ưa thích.
Trong một số sông hồ nội địa Đức cũng có đảo mà trong đó được biết đến nhiều
nhất là Mainau và Reichenau trên Bodensee cũng như là Herrenchiemsee trên
Chiemsee.
[sửa]
Khí hậu
Nước Đức thuộc về vùng khí hậu ôn hòa Trung Âu, trong khu vực của vùng gió Tây
và nằm trong khu vực chuyển tiếp giữa khí hậu biển trong Tây Âu và khí hậu lục
địa trong Đông Âu. Ngoài những yếu tố khác, khí hậu chịu ảnh hưởng của dòng hải
lưu Golfstream tạo nên những trị khí hậu ấm áp khác thường so với vị trí vĩ độ này.
Điều kiện thời tiết khắt nghiệt như hạn hán kéo dài, gió xoáy (Tornado), băng giá
lạnh với nhiệt độ cực thấp hay nóng cao độ tương đối hiếm. Thế nhưng thỉnh
thoảng vẫn xuất hiện giông bão mà đã gây ra nhiều thiệt hại nặng như trong năm
2000 và 2002. Tại Đức cũng thường hay xảy ra nước lũ sau thời gian mưa nhiều
trong mùa hè (lũ lụt Oder năm 1997, lũ lụt Elbe năm 2002) hay sau khi tan tuyết
trong mùa đông mà có thể dẫn đến lụt và gây tàn phá nặng. Việc hay có nước lũ tại
sông Rhein có thể là do việc đắp đập và đào thẳng sông Rhein trong thế kỷ 19 dưới
sự lãnh đạo của Tulla đã xóa bỏ các vùng ngập nước tự nhiên trước kia của con
sông này. Hạn hán chủ yếu chỉ xảy ra ở vùng đông bắc nước Đức nhưng đôi lúc
cũng ảnh hưởng đến trên toàn nước Đức như lần cuối cùng là trong đợt nóng năm
2003.
Số liệu khí hậu (giá trị trung bình của các năm 1961–1990):
Cả năm Tháng trong năm
3 đến 5 6 đến 8 9 đến 11 12 đến 2 1 2 3 4
5 6 7 8 9 10 11 12
Nhiệt độ trung bình (°C) 8,4 7,8 16,5 9,1 0,9 −0,5 0,5 3,7
7,6 12,2 15,5 17,1 16,9 13,8 9,4 4,2 0,9
Nhiệt độ thấp nhất (°C) 4,6 3,4 11,6 5,5 −2,4 −3,0 −2,5 0,0
3,0 7,3 10,6 12,3 12,0 9,3 5,7 1,6 −1,5
Nhiệt độ cao nhất (°C) 12,4 12,3 21,4 12,8 2,9 2,0 3,4 7,5
12,1 17,2 20,4 22,0 21,9 18,4 13,1 6,9 3,2
Biên độ nhiệt (°C) 7,8 8,8 9,8 7,3 5,2 5,0 5,9 7,4 9,1
9,9 9,8 9,7 9,8 9,0 7,5 5,3 4,7
Số ngày có tuyết 103,9 27,5 0,7 16,9 58,7 21,0 19,3 16,4 9,0
2,2 0,3 0,2 0,2 0,8 4,5 11,6 18,4
Số ngày mưa 178,2 44,0 44,3 43,0 46,8 16,6 13,4 14,9 14,3 14,9
15,1 14,8 14,4 13,6 13,5 15,9 16,8
Lượng nước mưa (mm) 700 163 221 166 150 51 40 48
51 65 77 72 71 57 50 58 59
Áp suất không khí (hPa−1000) 9,3 8,1 13,7 9,9 5,7 5,5 5,5
6,4 7,6 10,2 12,9 14,2 14,2 12,4 9,9 7,3 6,0
Mây (%) 72,0 69,3 63,0 73,8 81,9 83,5 78,0 74,8 69,3 63,8
64,8 63,5 60,6 66,9 72,9 81,5 84,3
Nguồn: Tyndall Centre for Climate Change Report
Tùy theo vùng mà các trị về khí hậu vượt quá hay thấp dưới giá trị trung bình về khí
hậu của toàn nước Đức rất nhiều. Miền Nam Baden ghi nhận nhiệt độ trung bình cả
năm cao nhất là 11°C trong khi ở Oberstdorf trị trung bình nằm dưới 6°C. Thêm vào
đó một xu hướng nóng lên đang hình thành: theo số liệu của Deutscher Wetterdienst
(Nha khí tượng quốc gia Đức) thì ngoại trừ năm 1996 nhiệt độ trung bình của tất cả
các năm từ 1988 đều trên nhiệt độ trung bình lâu năm là 8,3°C, trong năm 2003 còn
đạt đến 9,9°C. Đặc biệt là mùa hè đã nóng hơn rõ rệt. Thêm vào đó là mùa xuân cứ
đến sớm hơn 5 ngày mỗi một thập niên. Chim di trú ở lại Đức lâu hơn gần 1 tháng
so với thập niên 1970. Nhiệt độ thấp nhất từng được đo ở Đức là -45,9°C được ghi
nhận vào ngày 24 tháng 12 năm 2003 tại Funtensee. Nhiệt độ cao nhất cho đến nay
là 40,3°C vào ngày 8 tháng 8 năm 2003 tại Nennig.
[sửa]
Đất và sử dụng đất
Thành phần và chất lượng đất rất khác nhau tùy theo vùng. Tại miền Bắc Đức một
vòng đai gần biển từ đất đầm lầy màu mỡ tạo cơ sở cho một nền nông nghiệp có sản
lượng cao trong khi vùng đất cát nằm tiếp sau đó chịu nhiều ảnh hưởng của thời kỳ
Băng hà chỉ có đất rất cằn cỗi. Tại Lüneburger Heide đất này đã bị thoái hóa trở
thành đất podsol vì trồng cỏ qua nhiều thế kỷ nên gần như không còn có thể trồng
trọt được nữa. Cũng rất cằn cỗi là các vùng băng tích cũ và mới có cát bồi tụ lại. Thí
dụ như Brandeburg trong lịch sử đã nổi tiếng như là "hộp cát rải của Thánh Chế".
Giữa những vùng băng tích và vùng núi cao trung bình là một dãy đất hoàng sa màu
mỡ chạy từ Tây sang Đông và được sử dụng nông nghiệp cao độ. Trong vùng núi
cao trung bình ở miền trung nước Đức phần nhiều là đất không màu mỡ, phần lớn
diện tích là rừng. Trong miền Nam nước Đức các vùng đất tốt đặc biệt là nằm dọc
theo các sông Rhein, Main và Donau.
Tổng cộng có 53,5% diện tích nước Đức là đất nông nghiệp, 29,5% diện tích là đất
rừng, 12,3% diện tích là đất ở và đất giao thông (với xu hướng ngày càng tăng) và
1,8% diện tích là nước mặt.[cần dẫn nguồn]
[sửa]
Hệ thực vật và hệ động vật
[sửa]
Hệ thực vật
Vì nước Đức nằm trong vùng khí hậu ôn hòa nên hệ thực vật chủ yếu là rừng lá
rộng và rừng lá kim. Trường hợp ngoại lệ độc nhất của hệ thực vật rất đồng nhất
này là vùng Lüneburger Heide nổi tiếng thế giới. Rừng cây lá rộng phần nhiều là
cây dẻ gai đỏ (còn gọi là dẻ gai hay sồi châu Âu-Fagus sylvatica), bên cạnh đó có
đặc trưng là những rừng ngập nước trong vùng sông hồ mà ngay nay đã trở thành
hiếm có và rừng pha trộn dẻ gai và sồi. Thế nhưng những rừng cây lá rộng ngày xưa
rất phổ biến thường được thay thế bằng rừng gỗ vân sam (Picea).
Nếu không có tác động của con người thì nước Đức cũng như phần lớn các nước
trên thế giới sẽ có chủ yếu là rừng. Bên cạnh những loại cây cỏ trong tự nhiên, một
loạt những loại được nhập vào như bồ kết ba gai (Robinia) đóng một vai trò ngày
càng quan trọng trong hệ thực vật. Cây trồng nhiều là những cây nhập từ châu Mỹ
như khoai tây, ngô và cây táo.
[sửa]
Hệ động vật
Phần lớn những loài thú tại Đức sống trong các rừng cây lá rộng ôn hòa. Ngoài
những loài thú khác có nhiều giống chồn marten (Mustelidae) khác nhau, hươu
dama (Dama dama), hưu đỏ (Cervus elaphus), nai, lợn rừng và cáo. Hải ly và rái cá
đã trở thành dân cư hiếm có trong những vùng ngập nước cạnh sông.
[sửa]
Chính trị
[sửa]
Hệ thống hành chính
Thủ đô và trụ sở chính phủ của Cộng hòa Liên bang Đức là Berlin. Theo điều 20
của Hiến pháp Đức thì Cộng hòa Liên bang Đức là một quốc gia dân chủ, xã hội và
có pháp quyền. Nước Đức có tất cả 16 bang mà trong đó có 5 bang được chia thành
22 tỉnh (Regierungsbezirk). Mỗi bang trong số 16 bang, tùy theo số dân, có 3,4 hoặc
6 đại biểu của mình trong Thượng viện hay còn gọi là Hội đồng liên bang. Thượng
viện gồm 68 thành viên được bổ nhiệm với nhiệm kỳ nhất định. Hạ nghị viện (Nghị
viện liên bang) gồm 656 thành viên có nhiệm kỳ 4 năm, được bầu bằng tuyển cử
phổ thông đầu phiếu theo nguyên tắc kết hợp giữa chế độ cử tri duy nhất và cử tri
theo tỷ lệ. Hiến pháp quy định trật tự quốc gia. Nguyên thủ quốc gia là tổng thống
liên bang với nhiệm vụ đại diện. Nhìn theo nghi thức thì sau tổng thống là Chủ tịch
Quốc hội Liên bang, thủ tướng và Chủ tịch Hội đồng Liên bang mà căn cứ vào Hiến
pháp là người đại diện cho tổng thống. Lãnh đạo chính phủ là thủ tướng liên bang,
người có thẩm quyền quyết định đường lối chính trị của chính phủ liên bang. Thủ
tướng do Nghị viện liên bang bầu ra. Tổng thống do Hội đồng liên bang và số đại
cử tri bằng nhau của các bang bầu ra, nhiệm kỳ 5 năm.
Nước Đức là một liên bang, điều đó có nghĩa là hệ thống chính trị của Đức được
chia ra làm hai cấp: cấp liên bang, đại diện cho quốc gia về mặt đối ngoại, và cấp
tiểu bang của từng bang một. Mỗi cấp đều có cơ quan nhà nước riêng của hành
pháp, lập pháp và tư pháp.
Quốc hội Liên bang và Hội đồng Liên bang cùng quyết định về luật lệ của liên bang
và có quyền sửa đổi Hiến pháp với đa số 2/3 trong cả hai cơ quan. Quốc hội tiểu
bang quyết định về luật lệ cho từng tiểu bang. Mặc dầu các nghị sĩ không phải tuân
theo chỉ thị nhưng những quyết định trước đó trong các đảng phái chiếm ưu thế
trong việc ban hành luật lệ.
Hành pháp ở cấp liên bang được hình thành bởi chính phủ liên bang do thủ tướng
liên bang lãnh đạo. Thủ hiến tiểu bang (Ministerpräsident) lãnh đạo hành pháp ở cấp
tiểu bang. Các cơ quan hành chính ở cấp liên bang và tiểu bang được điều hành bởi
các bộ trưởng đứng đầu các cơ quan nhà nước.
Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức tại Karlsruhe giám sát việc tuân thủ hiến pháp.
Các tòa án tối cao của Đức là Tòa án Liên bang (Bundesgerichtshof) với trụ sở
chính tại Karlsruhe, Tòa án Hành chánh Liên bang tại Leipzig, Tòa án Lao động
Liên bang tại Erfurt, Tòa án Xã hội Liên bang tại Kassel và Tòa án Tài chính Liên
bang tại München. Phần lớn việc hành luật là trách nhiệm của các tiểu bang. Các tòa
án liên bang gần như luôn luôn là tòa án kháng cáo thượng thẩm và xem xét các các
quyết định của tòa án tiểu bang theo tính hợp pháp về hình thức và nội dung.
[sửa]
Các bang và các thành phố
Các thành phố lớn nhất của Đức là Berlin, Hamburg, München, Köln (Cologne),
Frankfurt am Main, Dortmund, Essen, Stuttgart và Düsseldorf. Bang Thủ
đô Diện tích (km²) Dân số(2)
1 Baden-Württemberg Stuttgart 35.751,65 10.717.000
2 Bayern München 70.549,19 12.444.000
3 Berlin (1) 891,753.388.000
4 Brandenburg Potsdam 29.477,16 2.568.000
5 Bremen Bremen(1) 404,23663.000
6 Hamburg (1) 755,161.735.000
7 Hessen Wiesbaden 21.114,72 6.098.000
8 Mecklenburg-Vorpommern Schwerin 23.174,17 1.720.000
9 Niedersachsen Hannover 47.618,24 8.001.000
10 Nordrhein-Westfalen Düsseldorf 34.042,52 18.075.000
11 Rheinland-Pfalz Mainz 19.847,39 4.061.000
12 Saarland Saarbrücken 2.568,65 1.056.000
13 Sachsen Dresden 18.414,82 4.296.000
14 Sachsen-Anhalt Magdeburg 20.445,26 2.494.000
15 Schleswig-Holstein Kiel 15.763,18 2.829.000
16 Thüringen Erfurt 16.172,14 2.355.000
(1) Tiểu bang Berlin và Hamburg chỉ bao gồm thành phố cùng tên; Bremen cũng
được xem là bang thành phố mặc dầu còn thành phố Bremerhaven cũng thuộc về
bang Bremen.
(2) Thời điểm: 31 tháng 12 năm 2004
[sửa]
Đảng phái
Liên Minh Dân chủ Thiên chúa giáo Đức (Christlich Demokratische Union
Deutschlands-CDU) được thành lập năm 1945 như là đảng kế thừa không phân biệt
tôn giáo của nhiều đảng mang tính tôn giáo và của giới trung lưu. Trong đảng chủ
yếu là những lực lượng được thống nhất từ Đảng Trung tâm Đức (Deutsche
Zentrumspartei). Đảng có khuynh hướng bảo thủ. Ngoại trừ bang Bayern, CDU
hoạt động trên toàn nước Đức. Liên minh Xã hội Thiên chúa giáo (Christlich
Soziale Union-CSU) có đường lối bảo thủ tương tự nhưng chỉ hoạt động tại Bayern.
Hai đảng này cùng nhau tạo thành một phái chung trong Quốc hội Liên bang Đức,
thường được gọi chung là "liên minh" hay "các đảng liên minh".
Đảng Dân chủ Xã hội Đức (Sozialdemokratische Partei Deutschlands-SPD), kể cả
các tổ chức tiền thân, tồn tại từ năm 1863 và vì thế là đảng chính trị lâu đời nhất vẫn
còn tồn tại cho đến ngày nay của Đức. Đảng đã thành lập truyền thống của Phong
trào Dân chủ Xã hội. Sau khi bị cấm trong thời gian của Chủ nghĩa Xã hội Quốc
gia(phát xít), đảng được tái thành lập vào năm 1945. Từ Chương trình Godesberg
năm 1959 đảng tự hiểu mình chính thức không còn chỉ là một đảng công nhân nữa
mà là một đảng quần chúng, muốn được sự chọn lựa từ nhiều tầng lớp quần chúng
rộng rãi. Niềm tin của đảng là "Tự do, Công bằng và Đoàn kết".
Đảng Dân chủ Tự do (Freie Demokratische Partei–FDP) được thành lập năm 1948
và trong tự nhận thức đã dựa trên truyền thống của phong trào chủ nghĩa tự do Đức,
phong trào mà ngay từ năm 1861 đã thành lập Đảng Tiến bộ Đức tại vương quốc
Phổ như là đảng chính trị đầu tiên của Đức trong ý nghĩa đảng phái được hiểu theo
quan niệm ngày nay. Đảng Dân chủ Tự do ủng hộ việc từng cá nhân có tự do và
trách nhiệm nhiều hơn nữa, đặc biệt là trong các vấn đề về kinh tế và về quyền công
dân cũng như là việc nhà nước đặc biệt nên thận trọng nhiều hơn nữa trong những
việc có liên quan đến kinh tế. Với tổng cộng 42 năm, FDP chính là đối tác liên minh
nhỏ tham gia chính phủ lâu nhất của liên bang.
Đảng Xanh (Die Grünen) hình thành năm 1979/1980 trên toàn liên bang từ các
phong trào xã hội mới thời bấy giờ, thí dụ như phong trào phụ nữ, phong trào hòa
bình và phong trào sinh thái của những năm 1970. Năm 1983 đảng được bầu vào
quốc hội liên bang lần đầu tiên. Năm 1990 đảng Xanh hòa nhập với phong trào nhân
dân Đông Đức Liên minh 90 (Bündnis 90) trở thành Liên minh 90/Đảng Xanh
(Bündnis 90/Die Grünen).
Đảng Chủ nghĩa xã hội Dân chủ (Partei des Demokratischen Sozialismus–PDS) là
đảng kế thừa của Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức (Sozialistische
Einheitspartei Deutschlands-SED), là đảng độc quyền lãnh đạo của Cộng hòa Dân
chủ Đức trước đây. Về nội dung, đảng dựa trên lý tưởng xã hội chủ nghĩa và trong
các đảng phái đứng về phía cánh tả của SPD. Thắng lợi quan trọng trong bầu cử
hiện nay được giới hạn trong miền Đông của nước Đức. Trong năm 2005, từ những
chống đối chính sách cải tổ của chính phủ liên bang do SPD và đảng Xanh cầm
quyền "Lựa chọn bầu cử Lao động và Công bằng Xã hội" (Wahlalternative Arbeit
und Soziale Gerechtigkeit-WASG) được thành lập từ sáng kiến của công đoàn và
những thành viên bị thất vọng của SPD. Trong cuộc bầu cử quốc hội liên bang năm
2005 PDS đã đưa thành viên của WASG vào danh sách ứng cử của đảng. Từ lý do
này PDS hiện đã đổi tên thành Đảng Cánh tả (Đức)Đảng Cánh tả (Die Linkspartei).
Cả hai đảng đang cố gắng hòa nhập thành một.
Những đảng cực hữu, ngoại trừ Đảng Đế quốc Đức (Deutsche Reichspartei) trong
Quốc hội Liên Bang lần thứ nhất (1949-1953), chưa từng có đại diện trong Quốc
hội Liên bang Đức, nhưng có thời gian đã có thể vào các quốc hội tiểu bang. Các
đảng này trải qua một thời kỳ nở rộ tương đối vào cuối thập niên 1960 và từ khi tái
thống nhất. Những đảng thuộc khuynh hướng này là Người Cộng hòa (Die
Republikaner-REP), Liên minh Nhân dân Đức (Deutsche Volksunion-DVU) và
Đảng Dân chủ Quốc gia Đức (Nationaldemokratische Partei Deutschlands-NPD).
Trong lịch sử của Cộng hòa Liên bang Đức đã có 2 lần cấm đảng phái đối với Đảng
Đế quốc Xã hội chủ nghĩa (Sozialistische Reichspartei-SRP) cực hữu vào năm 1952
và Đảng Cộng sản Đức (Kommunistische Partei Deutschlands-KPD) vào năm 1956.
Việc cấm đảng NPD năm 2004 thất bại chủ yếu là do lỗi lầm trong kết hợp giữa cơ
quan liên bang về bảo vệ hiến pháp và các cơ quan bảo vệ hiến pháp của các tiểu
bang.
Gần như tất cả các đảng có nhiều ảnh hưởng đều có tổ chức thanh niên - ít nhiều
độc lập - đứng bên cạnh. Các tổ chức quan trọng nhất là Liên minh Trẻ (Junge
Union) của CDU/CSU, Jusos của SPD, Người Tự do Trẻ (Junge Liberale) của FDP,
Thanh niên Xanh (Grüne Jugend) của Bündnis 90/Die Grüne cũng như là tổ chức
thanh niên 'solid-Thanh niên Xã hội chủ nghĩa (['solid] - die sozialistische jugend)
của Đảng Cánh tả.
[sửa]
Ngoại giao
Các đường lối định hướng quan trọng nhất của chính sách đối ngoại liên bang Đức
là "hội nhập phía Tây" và hội nhập châu Âu. Nước Đức góp phần quyết định trong
việc xây dựng những tổ chức châu Âu, cũng với mục đích là lấy đi sự lo ngại của
các nước láng giềng về nước Đức và làm cho các giới hạn từ các lực lượng chiếm
đóng trở nên không cần thiết. Cộng hòa Liên bang Đức là thành viên của Hội đồng
châu Âu từ năm 1950 và tham gia Hiệp ước Roma vào năm 1957 (còn Hiệp ước
thành lập Cộng đồng châu Âu), nền tảng của Liên minh châu Âu ngày nay. Quan
điểm chính yếu cho đường lối an ninh và thể hiện của sự hội nhập phía Tây là việc
nước Đức là thành viên của khối NATO. Nước Cộng hòa Liên bang Đức tham gia
khối NATO năm 1955.
Trong Chiến tranh lạnh phạm vi hoạt động của đường lối ngoại giao Đức bị giới
hạn. Một trong những mục đích quan trọng nhất là tái thống nhất. Việc tham chiến ở
nước ngoài đã không là việc được cân nhắc. Theo Hiến pháp, quân đội Đức không
được phép tham gia vào những cuộc chiến tranh tấn công, nhiệm vụ của quân đội
chỉ là bảo vệ khối liên minh và đất nước. Tuy vậy nhờ vào "chính sách phía Đông"
là sáng kiến của Đức với khẩu hiệu biến đổi qua tiếp cận, chính sách lúc đầu đã
được các đồng minh quan trọng quan sát một cách hoài nghi, mà nhiều dấu nhấn
chính trị độc lập đã có thể được đặt ra. Thời gian sau này chính sách được cho là có
nhiều thành tựu.
Từ khi tái thống nhất, nước Đức mở rộng các nguyên tắc trong chính sách ngoại
giao và đi trên con đường dẫn đến trách nhiệm quốc tế lớn hơn. Như từ năm 1991
quân đội Đức với sự đồng ý của Quốc hội Liên bang và cùng với quân đội đồng
minh cũng đã tham gia vào nhiều nhiệm vụ bảo vệ và cưỡng chế hòa bình bên ngoài
nước Đức và lãnh thổ của các đồng minh khối NATO.
Theo truyền thống, nước Đức cùng với nước Pháp đóng vai trò dẫn đầu trong Liên
minh châu Âu. Đức đẩy mạnh các nổ lực thành lập một hệ thống thống nhất và có
hiệu quả cao của chính sách an ninh và đối ngoại châu Âu, không chỉ bên trong Liên
minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu. Những mục tiêu khác của chính sách đối ngoại
khác là việc thực thi Nghị định thư Kyoto về bảo vệ khí hậu cũng như việc công
nhận Tòa án Hình sự Quốc tế trên toàn thế giới. Chính phủ liên bang đã từ chối
tham gia chiến tranh Iraq năm 2003. Cùng với các nước đồng minh là Liên hiệp
Anh và Pháp, nước Đức cố gắng thông qua đối thoại kêu gọi chính phủ Iran từ bỏ
việc tiếp tục thực hiện chương trình nguyên tử. Chính phủ Liên bang đang vươn đến
một ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an của Liên Hiệp Quốc. Việc tiến hành
mục đích này gặp khó khăn vì sự chống đối của những quốc gia khác mà một phần
là đồng minh. Nước Pháp và Anh ủng hộ về nguyên tắc các quốc gia G4 (Đức, Ấn
Độ, Nhật và Brasil) thế nhưng cho đến nay Mỹ vẫn chưa có bình luận gì về việc
này.
[sửa]
Quân sự
Bài chi tiết: Quân đội Đức
Sau khi thành lập năm 1949 lúc đầu Cộng hòa Liên bang Đức không có quân đội
riêng. Tình hình thế giới thay đổi sau cuộc chiến tranh Triều Tiên thế giới vào thế
đối đầu, chiến tranh lạnh bắt đầu. Cộng hòa Liên bang Đức gia nhập khối NATO
năm 1955 và thành lập quân đội. Sau tái thống nhất, nhiều phần của Quân đội Nhân
dân Quốc gia của Cộng hòa Dân chủ Đức được sát nhập.
Tổ chức chung được gọi là Bundeswehr bao gồm các lực lượng quân đội và cơ quan
hành chính. Quân đội được chia ra thành Lục quân Đức (Heer), Không quân Đức
(Luftwaffe), Hải quân Đức (Deutsche Marine) và các bộ phận hỗ trợ (hậu cần,
thông tin, tình báo quân đội, đào tạo, ) và quân y.
Trong tháng 4 năm 2005 có 257.000 quân nhân và 125.000 nhân viên dân sự phục
vụ và làm việc trong quân đội Đức. Từ năm 2001 phụ nữ cũng được phép phục vụ
không hạn chế trong quân đội. Thành phần phụ nữ là 6,2% quân nhân (thời điểm
2005). Cộng hòa Liên bang Đức chi phí 24,4 tỉ Euro trong năm 2004 cho quân đội,
tức 1,2% tổng sản phẩm quốc nội. Chi phí này đứng hàng thứ 6 trên thế giới so về
số tuyệt đối, nếu so với chi phí trung bình của các quốc gia thành viên khối NATO
là 2,3% thì đứng trong phần ba cuối cùng.
Trong căn cứ quân sự Mỹ Ramstein và căn cứ không quân Đức tại Büchel hiện nay
vẫn còn 65 quả bom hyđrô mà nước Đức có tham dự vào việc lập kế hoạch sử dụng
chúng trong khuôn khổ cùng sở hữu hạt nhân (nuclear sharing).Huy chương cao quý
nhất của quân đội Đức là huy hiệu Thập tự sắt.
[sửa]
Lịch sử
Bài chính về lịch sử Đức giới thiệu tổng quan có tính chi tiết hơn về lịch sử nước
Đức. Về nước Đức Trung cổ đọc bài Đức trong thời kỳ Trung cổ. Về tiến triển của
các quốc gia Đức sau Đệ nhị thế chiến đọc các bài lịch sử Cộng hòa Liên bang Đức
và lịch sử Cộng hòa Dân chủ Đức.
[sửa]
Thời tiền sử và Cổ đại

Bản đồ các bộ tộc người German vào khoảng 100 năm sau Công Nguyên
Các bằng chứng lâu đời nhất về dân cư trên lãnh thổ ngày nay của Cộng hòa Liên
bang Đức là vào khoảng 700.000 năm trước đây. Người ta cho rằng, cách đây từ
khoảng 500.000 năm, đã có dân cư sinh sống lâu dài ở đây. Trong nước Đức có
những khai quật quan trọng từ thời kỳ Nguyên thủy: đại diện của một loài người
trước kia Homo sapiens neanderthalensis, người Neanderthal, được gọi theo

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét